Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

XUÂN ẤM - Trương Chí Minh (Trung Quốc)

 

Khu nhà họ Chân tọa lạc ở mé bắc đường lộ, qua cổng vào bên trong, là hai lớp nhà. Sân ngoài, sân trong đều theo hướng bắc nam, dài hẹp, sân ngoài có hai gian nhà đông tây, sân trong ngoài hai gian nhà đông tây còn có nhà chính. Cổng ngoài và cổng trong đều không có cửa đóng, thảy chỉ xếp chồng bằng đá xanh. Trước nhà là bậc thềm đá xanh, mặt sân cũng lát bằng đá xanh.

Ngày trước nhà họ Chân vốn là một nhà phú nông, cho nên mới có khu nhà lớn như thế.

Trong nhà khắp mọi chỗ đều làm bằng đá, hàng xóm láng giềng qua lại, lúc nào cũng cảm thấy lạnh lẽo.

Gian nhà bên đông ở sân ngoài có Triệu Hỉ ở, còn nhà chính ở sân trong có Thủy Đào và con gái cô.

Tháng Chạp trước Tết, Triệu Hỉ mới vừa đến ở đó.

Tối hôm Đông chí trước Tết, xưởng pháo trong xã phát nổ, những công nhân làm ca đêm không một ai chạy thoát được ra, chết tất cả hơn hai mươi người. Trong đó nhà họ Chân mất đến năm người: chú, thím, anh trai, chị dâu, và cả chồng của Thủy Đào.

Nhà Triệu Hỉ ở phía sau xưởng pháo, nhà cửa bị phá sập cả. Vợ Triệu Hỉ tối ấy cũng đi làm trong xưởng pháo, tất nhiên cũng chẳng sống sót.

Nhà họ Chân mất đi năm người vốn đều sinh sống ở đây chỉ trong một đêm, khu nhà họ Chân rộng lớn như thế chỉ còn lại hai mẹ con Thủy Đào.

Tháng Chạp đông hàn, năm hết tết đến tới nơi, mà Triệu Hỉ lại thành ra một thân một mình, không chốn nương thân. Triệu Hỉ vốn chơi thân với người con trai của chú thím Thủy Đào giờ đang ở trên thành phố, vì thế bèn vào ở trong gian nhà mé đông ở sân ngoài mà trước đây chú thím Thủy Đào vẫn ở.

Triệu Hỉ không có con cái, kết hôn với vợ đã bảy tám năm mà vợ vẫn chưa sinh nở gì.

Giao thừa, Tết, cho đến tận Nguyên tiêu, trong sân nhà họ Chân không có câu đối đỏ, không có đèn lồng, tất nhiên càng không có tiếng pháo nổ. Một cái tết đi qua buồn tẻ nhạt nhòa, im lìm lặng lẽ.  

Chẳng phải chỉ có một sân nhà họ Chân, mà cả cái thôn Hồ Gia Kiều này vẫn còn chìm lặng mãi vào trong tiếng nổ kinh tâm động phách tối hôm đó, chưa thể hoàn hồn nổi.

Qua tiết Thanh minh ruột gan đứt đoạn, mưa lạnh đìu hiu ấy, một hôm, bỗng có một đôi én chợt đến ngậm bùn đắp tổ ở dưới mái hiên phía trên cửa sổ của gian nhà mé đông.

Đôi én bay ra bay vào, bộ dạng bận rộn hân hoan, khiến không khí nặng nề trong sân nhà họ Chân chợt trở nên có sức sống hơn.

(Tranh của Ngô Quán Trung - T.Q)


Ban ngày, lúc Triệu Hỉ ra ngoài đi làm, Thủy Đào suốt mấy tháng nay ngày ngày chỉ buồn bã ở trong nhà lại nhẹ nhàng nhón bước, ra khỏi lớp cửa trong, nấp ở phía sau, lặng lẽ ngây ra nhìn ngắm cái tổ én dưới mái hiên suốt hồi lâu.

Thôn Hồ Gia Kiều này, trong thôn ngoài thôn chỗ nào cũng sẵn nước, sẵn bùn, sẵn cỏ, cái tổ én đẹp đẽ chả mấy đã được xây xong dưới mái hiên gian nhà mé đông của Triệu Hỉ.

Rồi một hôm, trong cái tổ én dưới mái hiên ấy đã thấy có tiếng đòi ăn lích cha lích chích của lũ én con. Én lớn én nhỏ cùng hòa nhau, con kêu con hót, khiến khoảng sân vốn đau buồn, lạnh lẽo suốt một đông một xuân của nhà họ Chân đã có lại được sinh khí, cũng khiến trái tim ngưng trệ như nước đọng ao tù của Thủy Đào hoạt bát lên một chút.

Tối hôm ấy, đêm đã rất khuya, Thủy Đào vốn mất ngủ đã mấy tháng, dường như nghe thấy có tiếng mèo kêu, liền sau đó tựa hồ loáng thoáng nghe có một tiếng kêu của con chim én lớn.

Thủy Đào nhỏm người ngồi dậy, định khoác áo xỏ giày. Lập tức nhớ ra, cái tổ én ấy ở bên ngoài cửa sổ buồng Triệu Hỉ, Thủy Đào vội đứng dừng lại ở bên giường, chậm rãi cởi giày ra.      

Tất nhiên, Thủy Đào vẫn lo sợ.

Ngồi ở bên giường đến dăm ba phút, Thủy Đào lại xỏ lại chân vào giày, đi ra trước cửa sổ. Đứng bên cửa sổ lại bảy tám phút đồng hồ nữa, rốt cùng cô không thể nào an tâm nổi, nhẹ nhàng mở cửa, nhón chân, đi ra sân ngoài.

Ra khỏi lớp cửa ngăn với sân ngoài, dưới ánh trăng nhàn nhạt, đã nhìn thấy ngay khuôn cửa sổ gian nhà Triệu Hỉ ở. Thủy Đào vẫn còn nghi ngại, lại đứng dừng lại bốn năm phút, tận đến khi loáng thoáng có tiếng lịch bịch từ chỗ tổ én vẳng lại, cuối cùng mới không cần quan tâm gì nữa, quyết định lại gần xem xét cho rõ ràng.

Ai ngờ, cô vừa mới đến gần cửa nhà phía đông, thì Triệu Hỉ bỗng nhiên mở cửa, bước một chân ra.

Khoảnh khắc hai người cùng đứng sững lại đó, tiến chẳng xong, lui chẳng được. Dưới ánh trăng lờ mờ ai nấy cùng chôn chân tại chỗ.

Nửa phút sau, Thủy Đào mới lí nhí nói: “Hình như tôi nghe thấy có tiếng mèo đến, tôi không yên tâm lũ én con, định xem xem …”

Triệu Hỉ tựa hồ cũng được cởi trói, vội bảo: “Vâng, tôi cũng nghe thấy thế, tôi cũng định …”

Hai người lại cùng im lặng, lại đứng như trời trồng ở đó.

Lại nửa phút sau, Triệu Hỉ mới nói: “Để tôi mang cái thang lại, trèo lên xem xem.”

Triệu Hỉ đi sang hiên nhà bên tây lấy cái thang cũ đã hơi mục đến, còn Thủy Đào vẫn đứng tại chỗ.

Triệu Hỉ dựng cái thang tựa vào trước cửa sổ, lại vào buồng lấy cái đèn pin ra, định trèo lên. Thủy Đào lại hơi do dự, chỉ chỉ vào dưới chân thang nhắc bảo: “Xem xem, đã chắc chưa?”

Triệu Hỉ cầm đèn pin soi soi xuống dưới, lay lay cái thang, rồi nhanh nhẹn trèo lên. Thủy Đào không đừng được lại dặn dò: “Nhẹ nhàng thôi … chớ làm chúng sợ!”

Chỉ là lo hão.

Vì thế, cô vội vã quay người đi vào sân trong. Anh cũng nhẹ nhàng đem trả cái thang về chỗ cũ.

Ai nấy về buồng của mình.

Đến lúc trời mờ sáng, Thủy Đào cảm thấy mình mẩy hơi không được khỏe, căn bệnh phong hàn đeo bám cô lâu nay tựa hồ lại quay trở lại.

Sáng sau trở dậy, trời u ám, gió nổi lên. Lúc buổi trưa, gió trở mạnh hơn, một cơn gió lốc cuộn đến chỗ tổ én dưới mái hiên nhà bên đông, cuốn một con én con vừa mọc lông nhung đang đứng trên vách tổ én nghển cổ đợi mẹ rơi xuống đất, kinh hãi chíp chíp chíp hốt hoảng kêu vang.

Thủy Đào nghe thấy tiếng kêu vội vàng chạy ra. Triệu Hỉ đi ra ngoài không có ở nhà, nên cô chỉ còn cách tự vác cái thang đến, nhẹ nhàng cầm con én con trong lòng bàn tay, đang chuẩn bị trèo lên thang thì vừa vặn Triệu Hỉ từ ngoài cửa bước vào.

“Để tôi! Để đấy tôi!” Triệu Hỉ bỏ cái cuốc chạy tới.

Lửng chiều, trong làn gió ấm áp bắt đầu lay phay vài sợi mưa mát lạnh, tí ta tí tách, vấn vít tâm can.

Trong cơn mưa xuân miên man, đã đến xẩm tối lúc lũ trẻ đã tan học về nhà. Suốt mấy ngày phải nằm trong buồng vì ho, Thủy Đào cảm thấy toàn thân không còn sức lực nữa, cô nặng nhọc bước xuống giường, cầm lấy ô, loạng choạng chuẩn bị đến trường đón con. Từ trước Tết, sau khi xảy ra việc bất hạnh với mọi người trong nhà, cô bắt đầu phải đưa đón con đi học hàng ngày.

Triệu Hỉ từ nhà phía đông đi ra, nhìn Thủy Đào như cây dương liễu lung lay trước gió, bước lại giành lấy cái ô trong tay cô, nói: “Cô vào nhà đi, để tôi đi cho!”

Triệu Hỉ cầm ô, bước vào giữa những sợi mưa trên đường. Thủy Đào trông thấy trong cái nồi của Triệu Hỉ ở dưới mái hiên, nước đang cuồn cuộn cuồn cuộn sôi. Cô đứng ở cửa, ngần ngừ một lát, rồi mới bước vào trong gian nhà của anh.

Trong buồng rất tối, trống hơ trống hoác, phảng phất một mùi vị của cánh đàn ông làm ruộng. Lượn quanh hai vòng, Thủy Đào cũng không tìm thấy bột mì của Triệu Hỉ ở đâu.

Thế là cô vội vã lui ra, đi về buồng mình, xúc lấy một ít bột ngô, rồi lại vội vã trở lại, bỏ vào nồi nấu cho Triệu Hỉ.

Mưa xuân nghiêng nghiêng gõ vang lên những tiếng tinh tinh tang tang trên nền đá xanh trong sân. Trong chiếc nồi của Triệu Hỉ cũng tỏa ra làn khói trắng thơm nức hương ngô. Thủy Đào cầm muôi quấy thật kỹ bột trong nồi, đậy vung cẩn thận, lại đứng một chốc, rồi mới yên tâm quay vào sân trong.

Một làn gió xuân, kéo một vệt mưa xuân rắc lên đầu, lên mặt, lên người Thủy Đào, cô mới cảm chợt thấy hơi lạnh trong người. Thủy Đào thầm nghĩ – Có nhẽ cơn sốt lúc ban ngày vẫn còn chưa dứt hẳn!

(Châu Hải Đường dịch - Báo Văn nghệ, số 10/2024)        

            

CHIẾC MŨ CÓI TRÔI SÔNG (Trương Chí Minh – TQ)

Mặt trăng rất lớn, ánh trăng như sương như lụa loang đầy, nhuộm khắp cánh đồng mênh mông cùng cây cối làng mạc xa gần thành một bức tranh thủy mặc trong đêm.

Bao vây trong tiếng ếch râm ran khắp nơi, Xuân Sinh hút hết một túi thuốc, đổ hết tàn đi, rồi đứng lên, men theo bờ ruộng đi sang mé đằng tây. Thấy nước đã đầy rồi, anh ta quay trở lại đổi bơm sang ruộng khác, rồi lại ngồi xuống dưới gốc cây dương bên sông Hương Mễ.

Chắc đã hơn 12 giờ rồi. Xuân Sinh lại hút hết hai túi thuốc, thì đã díu mắt lại, vừa nghe tiếng nước chảy tiếng ếch kêu vừa chìm vào giấc ngủ.

Xuân Sinh nằm mơ, thấy mình đang đứng bên một con đường, ông nội bà nội đã mất từ lâu cùng với mấy người họ hàng làng xóm, còn có cả một số người không rõ là ai đang ngồi trên một chiếc xe rất đẹp, hình thù kỳ dị đi qua trên đường. Xuân Sinh muốn gọi họ, nhưng không thốt được thành lời. Họ nhìn thấy Xuân Sinh, thì đều tựa như không hề quen biết, cứ ào ào đi qua. Tiếp theo đó, Xuân Sinh lại thấy buồn đi tiểu đã gấp lắm rồi, nhưng lại không tìm thấy nhà xí, cuối cùng không nhịn nổi nữa, anh ta chạy ra sau chỗ góc tường đổ vách xiêu, vừa cởi được quần ra thì bỗng nhiên tỉnh dậy.

Xuân Sinh mở bừng mắt, lơ mơ một lúc, mới hiểu ra là vừa chiêm bao. Dụi mắt đứng dậy, đi ra bên bờ sông, Xuân Sinh trông thấy có một chiếc mũ cói nổi trên mặt nước, đang quay vòng vòng ở đó, chậm chạp trôi xuôi. Anh ta bèn đứng trên bờ, đái vào cái mũ. Vừa mới đái, liền nghe thấy từ dưới nước có tiếng nói vọng lên: “Sao anh tệ thế, đái vào đầu tôi rồi!” Tiếng nói ấy vừa ngưng thì nước dưới sông Hương Mễ dường như lập tức chảy nhanh hẳn lên, cái mũ cói đột nhiên tăng tốc trôi xuống phía nam.

Đang đái dở, Xuân Sinh cũng phải cố nín lại, anh ta xách quần, lên cầu, líu ríu chạy một mạch về thôn. Tận đến khi vào hẳn trong thôn rồi, Xuân Sinh vẫn không dám ngoái đầu lại nhìn.

Xuân Sinh hốt hoảng chạy vào trong sân, thấy trong buồng đèn vẫn còn sáng. Anh ta đang định vào nhà, bỗng nhiên cảm thấy chỗ bức tường phía nam có tiếng động, quay đầu lại nhìn, một bóng đen đã vụt qua đầu tường, lăn xuống dưới. Trong cơn kinh hoảng, Xuân Sinh đá đổ một cái ghế đẩu trong sân, thì thấy cửa sổ buồng ngủ chợt tối đen.

“Nghe thấy tôi về, lại còn vội vàng thổi tắt đèn đi?” – Xuân Sinh vào nhà, nói với Thủy Đình vợ mình, vẻ oán trách.

“Ai biết là anh? Tôi tưởng con mèo.” Thủy Đình ở trên giường trả lời trong bóng tối.

Đợi đèn được thắp trở lại, Xuân Sinh trông thấy trên giường chăn chiếu bừa bộn, giữa đêm cuối thu mà khuôn mặt Thủy Đình mướt mát mồ hôi.

“Vừa nãy, chỗ góc tường phía nam đúng là có một bóng đen, loáng cái đã không trông thấy đâu nữa.” Xuân Sinh nói, vẫn chưa hết hoảng hồn.

“Chắc chắn là con mèo.” Thủy Đình vội quay mặt đi vuốt lại tóc, sắp lại chăn.

“Có vẻ to hơn con mèo.” Xuân Sinh nhấn giọng.

Trong ánh sáng ngọn đèn hạt đỗ, Thủy Đình nguýt anh ta, bảo: “Thế thì chắc là ma.”

Xuân Sinh vừa nghe thấy đã giật nảy mình, vội vàng xua tay: “Đừng nhắc đến ma nữa, tôi vừa mới gặp ma ở cánh ruộng bên tây đây.”



Rồi Xuân Sinh đem câu chuyện ở ngoài đồng khi nãy kể cho Thủy Đình nghe, trong lòng vẫn còn nguyên vẻ sợ hãi, lại bảo, vẫn còn chưa bơm xong nước vào ruộng, nhưng anh ta không dám đi nữa.

Thủy Đình vừa nghe, liền mắng bảo: “Lũ đàn ông các anh thật không ra làm sao, chỗ nào đái chả được, lại đi đái xuống sông! Không biết là cánh phụ nữ chúng tôi tối nào cũng phải ra sông giặt quần áo à?”

Xuân Sinh ngồi trên giường, xin Thủy Đình đi cùng mình ra bơm nước ruộng. Thủy Đình lừ mắt, bĩu môi, đạp cho Xuân Sinh một cái vào hông, mắng bảo: “Trông anh có ra cái giống gì không, rõ là gan thỏ đế, việc gì cũng phải bấu lấy vợ!”

Xuân Sinh ngả người nằm ngửa trên giường, nói: “Chả cần biết, nhưng tôi không đi nữa.”

Hai người im lặng lúc lâu, Thủy Đình bỗng ngồi dậy, bảo: “Nếu không thì anh đi gọi Quý Lai, bảo anh ấy đi với anh, anh ấy còn chưa ngủ đâu.”

“Làm sao em biết anh ấy chưa ngủ” – Xuân Sinh vẫn nằm trên giường, hỏi.

Câu hỏi lại của Xuân Sinh khiến Thủy Đình sững lại hồi lâu, cô tránh ánh mắt của anh ta, lại nằm xuống, nói: “Vừa nãy tôi nghe thấy, anh ta ở trong nhà kêu cái gì rất lớn tiếng, nhất định là chưa ngủ đâu.”

Xuân Sinh ở trên giường ngẫm nghĩ rất lâu, chỉ còn cách trở dậy tìm lấy nửa chai rượu còn lại từ hôm Tết, lại kiếm cái túi ni-lông lấy một ít đồ muối, đi ra sân gọi Quý Lai ở cách bên kia tường vây.

Nhà Quý Lai ở phía nam nhà Xuân Sinh, hai nhà chỉ cách nhau một bức tường cao bằng đầu người.

Nghe thấy Xuân Sinh gọi uống rượu, rất lâu sau Quý Lai mới đáp lời, rồi mặc quần áo mở cửa đi ra.

Đêm càng thêm tĩnh lặng, Xuân Sinh và Quý Lai thập thõm theo nhau đi ra cánh đồng phía tây, ngồi bên sông Hương Mễ uống rượu với đồ muối. Trong ruộng lúa, tiếng ếch kêu càng râm ran, bóng trăng đã tới ngọn hàng dương liễu phía tây, hai người cùng quay mặt sang phía đông, đối diện với những bông lúa, nói chuyện, uống rượu, trong bụng sợ hãi, nhưng không ngăn được ý muốn nhìn xuống dòng sông phía sau lưng mình.

Đến tờ mờ sáng, cuối cùng ruộng cũng đã bơm đủ nước rồi. Xuân Sinh và Quý Lai đều không xuống sông rửa chân, cứ xách giày đi chân không về thôn.

Xuân Sinh vừa mới rửa chân tay nằm xuống giường, thì chợt người bên nhà đẻ của Thủy Đình đã đến sân, đứng ngoài cửa sổ gọi gấp, nói rằng: em trai Thủy Đình đi lấy nước vào ruộng suốt đêm qua, nhẽ ra đã phải xong từ lâu rồi, mà tận bây giờ vẫn chưa thấy về nhà, cha Thủy Đình đi ra đồng tìm, chỉ thấy chỗ cửa cống có một đôi dép, mà người thì chẳng thấy đâu. Em trai Thủy Đình bị chứng động kinh. Cả nhà đều hoảng lên, gọi người nhà, hàng xóm, men theo bờ sông đi tìm. Người vừa đến bảo Xuân Sinh cũng mau mau ra đi tìm giúp.

Nhà đẻ Thủy Đình ở phía tây thôn, cách cầu Hồ Gia một khoảng đất, cũng đều lấy nước sông Hương Mễ bơm ruộng.

Tận tới lúc mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, mọi người cuối cùng cũng tìm thấy em trai của Thủy Đình ở chỗ hõm cong của sông Hương Mễ, trên quãng đồng phía nam cầu Hồ Gia. Nó bập bềnh giữa đám cỏ nước um tùm, chiếc mũ cói vẫn đội trên đầu.

(Châu Hải Đường dịch - Báo Văn nghệ số 9/2024)

Trương Chí Minh là một tác giả đương đại Trung Quốc chuyên viết thể loại truyện ngắn mini (tiếng Trung gọi là Tiểu Tiểu thuyết, hay Vi hình Tiểu thuyết), ông liên tục có tác phẩm đăng trên "Tiểu tiểu thuyết Nguyệt báo" - Một tập san ra hàng tháng chuyên đăng các truyện ngắn mini, và nhiều lần có tác phẩm được tuyển chọn vào các tập "Trung Quốc Vi hình tiểu thuyết Tinh tuyển" hàng năm.