Thứ Hai, 20 tháng 12, 2021

Bài thơ Tự thuật tuổi 40 của Đường Dần (Minh)

 

Họa gia nổi tiếng đời Minh - Đường Dần, có bài thơ như sau:

魚羹稻衲好終身
彈指流年到四旬
善亦懶為何況惡
富非所望不憂貧
僧房一局金縢着
野店三杯石凍春
自恨不才還自慶
半生無事太平人

Ngư canh đạo nạp hảo chung thân;

Đàn chỉ lưu niên đáo tứ tuần.

Thiện diệc lãn vi hà huống ác;

Phú phi sở vọng bất ưu bần.

Tăng phòng nhất cục Kim Đằng Trước[1];

Dã điếm tam bôi Thạch Đống Xuân[2].

Tự hận bất tài hoàn tự khánh;

Bán sinh vô sự thái bình nhân.

Tạm dịch:

Áo tăng canh cá trọn đời vui;

Chớp mắt nay đà tứ thập rồi.

Giàu đã không mong, nghèo chẳng sợ;

Thiện làm còn ngại, ác sao đòi.

Kim Đằng một cuộc buồng sư đọ;

Thạch Đống ba ly quán vắng ngồi.

Tự hận bất tài còn tự chúc;

Thái bình vô sự nửa đời người.

Đây vốn là một bài thơ đề tranh của Đường Dần, nên không có tiêu đề.  Sau bài thơ chỉ có lạc khoản: “吴趨唐寅自述不惑之齒於桃花庵,畫並書” (Ngô Xu Đường Dần tự thuật Bất hoặc chi xỉ, ư Đào Hoa Am, họa tịnh thư) – Đường Dần người đất Ngô tự thuật vào tuổi Bất hoặc, ở Đào Hoa Am, vẽ và đề chữ) nên có chỗ thì đặt tên bài thơ là “Tự thuật”, có chỗ thì gọi là “Tứ thập tự thọ”, còn bức tranh thì cũng có chỗ gọi là “Tứ thập tự thọ đồ”.

(Bài thơ trên tranh)


Về sau, Đường Dần có chép lại bài thơ trên tranh cùng một số bài thơ khác của mình và tặng cho người bạn là Tây Châu, có lạc khoản đại khái nói: Sau gần 30 năm chia biệt Tây Châu, ngẫu nhiên gặp lại nên chép mấy bài thơ vụng xin thỉnh giáo, trong khi đang bệnh nên chẳng có giai hứng gì, láo nháo vài ý mà thôi. (bản “Tặng Tây Châu thi quyển” của Đường Dần hiện lưu giữ ở Bảo tàng Thượng Hải).

(Bài thơ Đường Dần chép trong "Tặng Tây Châu thi quyển")

(Dọn máy tính đôi khi tìm lại được những ghi chép, dịch thuật vặt vãnh, nhưng cũng hay hay. Đây là một ví dụ. Thực ra mình cũng quên là đã từng dịch bài thơ này của Đường Bá Hổ, có lẽ đã dịch chơi khi ở vào tuổi Bất Hoặc như ông ấy chăng?) 

C.H.Đ

[1] Kim Đằng Trước, tức Kim Đằng Thất Trước, tên bản Kỳ phổ. Đây chỉ chơi cờ.

[2] Thạch Đống Xuân: tên một loại rượu ngon.

Thứ Tư, 17 tháng 11, 2021

MUA VỢ (Nguyên tác: Mễ Hương Lão)

Khoảng niên hiệu Khang Hy, tổng binh Vương Phụ Thần làm phản. Phàm những nơi đi qua đều thả sức cướp bóc. Bắt được đàn bà con gái, không cần biết tuổi tác già trẻ thế nào, dung mạo xấu đẹp ra sao, đều bỏ vào trong túi vải, sau đó ra giá bốn lạng bạc một túi, cho người ta tùy ý chọn mua. Mễ Hương Lão ở huyện Tam Nguyên (nay thuộc Thiểm Tây), tuổi đã hai mươi, vẫn chưa lấy vợ. Bèn một mình mang theo năm lạng bạc đến quân doanh, đem một lạng ra biếu cho người quản sự, hy vọng có thể mua được một mỹ nhân. Người quản sự dẫn chàng vào trong doanh, bảo chàng tự mình chọn lấy. Mễ Hương Lão sờ nắn từng cái túi một, chọn trúng một cái túi sờ thấy eo thon chân nhỏ, bèn vác luôn về. Đến một chỗ quán trọ, mở túi ra xem, thì hóa ra là một bà già, mặt đầy nếp nhăn, tuổi đã gần bảy chục rồi. Mễ Hương Lão hối hận vô cùng, lặng lẽ ngồi trên giường, mặt xám như tro lạnh. Lúc lâu, có một ông già đầu râu tóc bạc, cưỡi trên lưng một con lừa đen, chở theo một người con gái xinh đẹp cũng vào trọ. Ông lão đỡ cô gái xuống, buộc lừa vào tàu, rồi vào trọ trong gian nhà ở mé tây căn buồng của Mễ. Mễ và ông già cùng chắp tay chào nhau, ai nấy hỏi thăm danh tính làng xóm. Ông lão tự nói mình họ Lưu, người ở Hà Mô Oa, tuổi đã sáu mươi bảy. Hôm qua đem bốn lạng bạc mua được một túi người, không ngờ là tuổi tác trẻ quá, lại may là dung mạo cũng xinh đẹp, về nhà có nàng dẫu ở trong căn nhà rách, cũng đủ để vui tuổi già. Mễ Hương Lão nghe xong, lòng như lửa đốt, tiếc nuối muôn phần. Ông già Lưu thì vô cùng đắc ý, kéo Mễ ra phố uống rượu. Mễ nghĩ mượn chén rượu của người để vơi bớt phiền lão của mình, cũng là rất phải, bèn theo ông lão đi ra.

Bà già đợi bọn họ đi xa rồi, chậm rãi bước sang phòng bên tây, vén rèm đi vào. Thấy cô gái đang lấy tay áo che mặt mà khóc. Trông thấy bà già, nàng mới đứng dậy chỉnh đốn y phục chào hỏi, đôi mắt đẹp ngân ngấn lệ, trông dung nhan như hoa đào dầm mưa. Bà già hỏi cô vì sao mà khóc, cô gái đáp: “Tiểu nữ là người huyện Bình Lương, Cam Túc, họ Cát, tuổi mới mười bảy. Cha mẹ anh em đều bị bọn phản tặc sát hại, chỉ có tiểu nữ bị chúng cướp đi, định cưỡng bức dâm ô, tiểu nữ khóc lóc chửi rủa, đám giặc tức giận, cho nên mới đem tiểu nữ bán cho ông già kia. Nghĩ lại chẳng bằng chết đi cho rồi, cho nên mới buồn mà khóc.” Bà già than thở nói: “Đúng là trẻ tạo hóa làm chúng sinh rối loạn, khiến người ta thực không thể nghĩ bàn. Lão đây già rồi mà chẳng chết đi, để gặp phải cảnh loạn ly thế này, lại còn không đâu bị một tên tiểu tử mua phải, trong lòng còn gì đáng buồn hơn thế? Vừa nãy trông thấy ông lão già nhà cô, già nua lọm khọm, tuổi tác cũng ngang tầm như lão đây. Huống chi, hai người chồng già vợ trẻ, chưa hẳn đã xứng đôi. Bọn họ một người vui mừng, một người sầu muộn, chưa uống say thì chưa về đâu. Hai người chúng ta, làm sao không lấy mận thay đào, đổi chỗ mà ngủ. Đợi đến canh năm ngày mai, cô và chàng thiếu niên nhà tôi dậy sớm đi nhanh. Cứ mặc tôi với lão già kia cùng sống chết với nhau. Cô không cần phải đau buồn nữa!” Cô gái còn do dự không chịu bằng lòng ngay. Bà già lại nghiêm giọng nói: “Đó chính như người ta nói, đôi bên mua bán đều vừa ý rồi, thì ai đi đường nấy, ấy là cách nhất cử lưỡng tiện vậy. Cô mau rời khỏi đây đi, để đến tối thì chuyện này không xong được nữa rồi!” hai người bèn cởi y phục đổi cho nhau. Cô gái bái tạ bà già, bà già dẫn cô vào phòng của Mễ Hương Lão, lấy chăn đắp lên người cẩn thận, rồi dặn dò cô không được nói năng gì. Còn mình thì sau đó lại về đến buồng phía tây, trùm chăn kín mà ngủ.



Quá canh hai, ông lão và Mễ đều say túy lúy trở về, vì đi đường vất vả, nên cũng ai về buồng nấy mà ngủ. Sau canh ba, Mễ đang mơ màng, chợt nghe thấy có tiếng gõ cửa, dậy khoác áo ra xem, thì hóa ra là bà già. Mễ Hương Lão kinh ngạc hỏi: “Bà đi đâu thế?” Bà già cắt ngang lời Mễ, bảo chàng chớ nói gì nữa, rồi vội vàng vào buồng, đóng chặt cửa lại, đem tình thực nói cho chàng biết. Mễ vừa mừng vừa sợ, nói: “Tuy rằng được bà bỏ công sắp đặt, nhưng hại người lợi mình làm sao mà được?” Bà già cười nhạo bảo: “Vậy là cậu không nghe lời lão đây, muốn vứt bỏ một tiểu nương tử, mà lại làm hại một kẻ già cả! Với người có chỗ nào tốt, mà với mình thì không hại gì ư?” Mễ cho rằng bà già nói cũng phải. Bà già bèn vén chăn, giục cô gái dậy, lại dặn đi dặn lại bọn họ. Mễ Hương Lão và cô gái khóc mà bái tạ bà già. Bà ngăn lại, nhủ bảo: “Đi sớm đi, e là ông lão kia sẽ dậy sớm đấy, lão tôi xin được bái biệt từ đây.” Rồi lập tức ra khỏi cửa đi. Mễ vội vàng thu thập hành lý, cô gái lấy tấm khăn lụa xanh che mặt, Mễ dìu nàng ra khỏi quán trọ. Chủ quán trông thấy nói: “Hai người sao đi sớm thế?” Mễ tiện miệng đáp: “Đi sớm một chút, cho khỏi nắng.” Rồi hai người cùng trốn chạy đi.

Hôm sau, ông lão trông thấy bà già thì vô cùng kinh ngạc. Hỏi rõ duyên do rồi, ông ta vô cùng tức giận, vung nắm đấm đánh bà già. Không ngờ bà già tuổi cao mà còn mạnh khỏe, cũng vung tay đánh lại, không chịu nhún chút nào. Tất cả mọi người trong quán trọ đều vây lấy xem, đứng chật như tường. Ông lão phẫn uất kể lại nỗi oan uổng của mình, muốn cưỡi lừa chạy đuổi theo họ. Ai nghe thấy cũng buồn cười. Chủ quán khuyên bảo: “Hắn đã dắt được thiếu nữ mà trốn đi, làm sao lại còn đi đường lớn cho ông truy đuổi nữa? Huống chi từ canh tư họ đã đi, đến giờ cũng phải đi được mấy chục dặm đường rồi. Người ta sợ nhất là không sáng suốt tự biết mình, nếu như có thể biết an phận giữ mình, thì hãy dẫn theo bà già kia về nhà. Vợ chồng già cùng sống với nhau, chớ có nghĩ rằng thế là không xứng.” Ông lão đứng lặng hồi lâu, dần nguôi cơn giận, ngẫm nghĩ lại câu nói của chủ quán, cảm thấy rất có lý, bèn dẫn theo bà già lên đường. Đến giờ, người khắp một vùng Thiểm Tây, Cam Túc vẫn còn nhớ rõ chuyện này.

(Trích "Dạ Đàm Tùy Lục" - Hòa Bang Ngạch)

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

ĐÔI ĐIỀU VỀ TRUYỆN CỰC NGẮN - Uông Tăng Kỳ


Truyện cực ngắn (hay Truyện ngắn mini) vốn vẫn có từ xưa. Nước ngoài cũng có. Nhưng ở Trung Quốc mấy năm gần đây truyện cực ngắn đặc biệt phổ biến, diện độc giả cũng rất rộng, vì vậy truyện cực ngắn lại trở thành một hiện tượng mới đáng chú ý, và truyện cực ngắn trên thực tế cũng hình thành một khái niệm mới. Truyện cực ngắn là gì? Khái niệm này bao gồm những nội dung gì? Tìm hiểu một chút về vấn đề này sẽ giúp ích cho sự phát triển trong sáng tác truyện cực ngắn.

Truyện cực ngắn thịnh hành, không chỉ là vì tiết tấu khẩn trương của cuộc sống hiện nay, khiến cuộc sống trở nên gấp gáp, thiếu thời gian rảnh rỗi. Nếu đúng như thế thì những tiểu thuyết dài ắt hẳn sẽ không có ai đọc nữa. Nguyên nhân quan trọng hơn chính là yêu cầu của độc giả đối với hình thức của tiểu thuyết ngày càng nhiều hơn. Họ đòi hỏi có những sản phẩm mới, hình thức mới, hương vị mới. Thừa nhận điểm này, thì truyện cực ngắn mới có thể thực sự chiếm được một chỗ ngồi trong bàn tiệc văn học, tác giả của truyện cực ngắn mới có thể có những tìm kiếm đặc biệt riêng có của mình.

(Nhà văn Uông Tăng Kỳ)

Truyện cực ngắn không phải chỉ là một câu chuyện ngắn. “Ngắn” không phải là đặc trưng bên ngoài duy nhất của nó. Truyện cực ngắn vẫn có thể được coi là một nhánh của truyện ngắn, nhưng nó lại đứng bên lề của truyện ngắn. Truyện cực ngắn nên có đầy đủ những tính chất bình thường của truyện ngắn. Truyện cực ngắn và truyện ngắn xét về bản chất vừa tương cận lại vừa có những khác biệt. Nói một cách đại thể: trong truyện ngắn có nhiều thành phần tản văn hơn, còn trong truyện cực ngắn thì nên có nhiều thành phần thơ hơn. Truyện cực ngắn là một sản phẩm kết hợp hòa trộn giữa truyện ngắn và thơ. Nó không có sự hoành tráng của thơ tự sự, cũng không có tính âm nhạc mạnh mẽ như thơ trữ tình. Có thể nói, nó là một sản phẩm được viết bằng tản văn, mờ ảo hơn so với thơ tự sự, và có tính tình tiết hơn thơ trữ tình. Nó lại không phải là thơ tản văn, bởi vì rốt cuộc nó vẫn là một truyện ngắn. Truyện cực ngắn có “bốn cái không giống” ấy, vì vậy nó mới có ý nghĩa, mới “hay ho”, mới khiến người ta thích thú.    

Truyện cực ngắn thì phải “ngắn”. Ngắn thì là ngắn thôi: từ ngoài vào trong đều ngắn. “Trong nhỏ thấy lớn” là câu cửa miệng của những nhà bình luận, nhưng những ai có một chút kinh nghiệm sáng tác truyện cực ngắn thì đều biết, trên thực tế điều đó không thể làm nổi. Ai cũng không thể thực sự từ một giọt nước mà nhìn ra biển lớn được. Hình thế lớn, vấn đề lớn, đề tài lớn đều là những cái mà truyện cực ngắn không thể dung nạp được. Yêu cầu truyện cực ngắn phải có cảm súc lịch sử to lớn dày nặng, khái quát cả một thời đại, thì không khác nào ép một con lừa đi kéo một đoàn tàu hỏa cả. Điều mà tác giả truyện cực ngắn phát hiện, suy nghĩ, thể hiện chỉ có thể là một phiến đoạn, một mảnh ghép nho nhỏ trong cuộc sống. Mảnh ghép ấy người khác chưa từng thể hiện qua, chưa từng suy nghĩ đến, chưa từng phát hiện ra. Quan trọng nhất là phát hiện. Phát hiện tất nhiên là đi cùng với suy nghĩ, cùng với đó cũng sẽ khá dễ dàng tìm thấy một hình thức biểu hiện thích hợp một cách tự nhiên. Văn học vốn đều là sự phát hiện. Nhưng, tác giả truyện cực ngắn càng cần phải có “mắt nhìn” hơn, bởi những điều thu hút sự chú ý của tác giả truyện cực ngắn thường là những chuyện nhỏ mà người bình thường dễ dàng bỏ qua. Chuyện nhỏ ấy phải là nguyên liệu tự nhiên cho một truyện cực ngắn. Một nguyên liệu như vậy, không phải cứ cúi xuống nhặt mà được, tiện tay vơ là có thể vơ được. Có được nguyên liệu cho một truyện cực ngắn thường là việc mang tính ngẫu nhiên, thiên duyên kỳ ngộ, chẳng hẹn mà gặp. Hơn nữa, thường thường phải lưu giữ một thời gian, tác giả mới có thể hiểu ra được ý nghĩa của chuyện nhỏ ấy một cách đại khái. Viết truyện cực ngắn quả thực cần phải có một chút “thiền cơ”.

Truyện cực ngắn không có nhiều khả năng có tư tưởng gì quá sâu sắc, và cũng không nên có tư tưởng sâu sắc gì. Truyện cực ngắn có thể có một chút triết lý, nhưng không thể tiến hành một tư biện triết học nghiêm túc gì trong đó (truyện vừa, và trường thiên tiểu thuyết thì có thể). Đặc điểm của truyện cực ngắn là tư tưởng sáng rõ. Nửa mẫu mặt hồ, một vụng nước khe, nông mà chẳng lộ. Truyện cực ngắn nên phải có tính mờ ảo ở một trình độ nhất định. Mờ ảo không phải là thủ pháp, mà chính là tư tưởng của tác giả vốn không phải là quá rõ ràng. Có một chút ý tứ như vậy, nhưng hoàn toàn không hề thấu triệt. “Trong đây có chân ý; Muốn nói đã quên lời” (Câu thơ của Đào Uyên Minh – N.D). Trên thế giới không có một ai thực sự hiểu rõ một cách triệt để và toàn diện về thế giới cả, mà họ chỉ có thể hiểu về phần thế giới mà họ cảm biết được. Hemingway nói, những tiểu thuyết gia thế kỷ 19 tự coi mình là thượng đế, họ cái gì cũng biết. Balzac thì cho là cái gì ông cũng biết, độc giả chỉ cần nghe ông nói. Vì vậy, độc giả liền trở thành một kẻ thật thà nghe thế nào thì biết như thế, còn bản thân ông ấy thì đã nói rất nhiều cái mà kỳ thực ông cũng không biết. Cái gọi là hàm súc, hoàn toàn không phải là tác giả biết rất nhiều điều, nhưng cố ý không nói nhiều, mà chỉ là anh ta không nói những điều mà mình còn chưa biết. Tác giả truyện cực ngắn phải thực sự thành khẩn thể hiện cho độc giả biết rằng: về câu chuyện nhỏ này, ý nghĩa của nó, đến nay tôi vẫn mới chỉ có thể nghĩ được đến mức độ này thôi. Một thiên truyện cực ngắn được viết ra, thì quá trình sáng tác vẫn còn chưa kết thúc. Tác giả vẫn còn có thể suy nghĩ tiếp, độc giả cũng sẵn lòng cùng tác giả tiếp tục suy nghĩ. Như vậy, độc giả mới có thể vừa có được khoái cảm thưởng thức, vừa có được khoái cảm của suy tưởng. Tìm tòi, là vẫn còn chưa đạt được. Tìm tòi là việc của tác giả, cũng là việc của độc giả. Truyện cực ngắn không cần nhiều nhiệt tình quá, thậm chí không cần nhiệt tình. Hô hào, hò hét, hoa tay múa chân, sẽ khiến độc giả chán ngấy. Tác giả truyện cực ngắn trước mảnh ghép cuộc sống mà anh ta phát hiện, tốt nhất hãy vượt lên trên một chút, giữ một thái độ khách quan, hết sức để không thể hiện lên tiếng bày tỏ riêng gì. Truyện cực ngắn luôn có thái độ của nó, nhưng phải hết sức thu gọn. Có thể thể hiện sự mến mộ đối với một người, nhưng không thể khoa trương thành một đóa hoa; Có thể châm biếm đối với một sự việc, nhưng không sâu cay. Điều mà một tác giả truyện cực ngắn cần là: thông minh, an tĩnh, thân thiết.

(Thư pháp Uông Tăng Kỳ)

Truyện cực ngắn là một dây hoa anh đào, là một cành bạch lan đượm sương, bản sắc thiên nhiên, đầy đặn hoàn mỹ. Truyện cực ngắn không phải là một cái bánh lương khô ép nhỏ, không phải rau sấy khô, không thể đem một truyện ngắn vắt khô hết nước đi, ép chặt lại trong khuôn khổ nhỏ nhoi, để biến thành một thiên truyện cực ngắn. Tất nhiên, cũng chẳng có ai đi làm một việc ngốc nghếch không ai nghĩ đến ấy. Truyện cực ngắn không thể viết một cách quá khô khan, quá bó chặt, quá chật hẹp. Càng trong một khuôn khổ có hạn, càng cần phải ung dung thoải mái. Truyện cực ngắn tự thành một kiểu, với kỹ năng riêng. Truyện cực ngắn giống như một bức tranh khổ nhỏ hình vuông, hình quạt, hay sách gấp. Cách vẽ bức tranh với khuôn khổ như thế, khác hẳn với cách vẽ một bức tranh lớn hay cuộn dài. Bố cục,  dùng mực, bố trí màu sắc cũng hoàn toàn khác nhau. Một bức tranh sơn thủy hoành tráng rất khó thu nhỏ lại vẽ vào một bức tranh nhỏ. Đời Tống từng có vẽ những khung cảnh lớn như tranh đua thuyền rồng – “Long chu cạnh độ đồ”, tranh núi non lầu gác – “Tiên sơn lâu các đồ” vào những chiếc quạt lụa, dụng bút tuy cực kỳ tinh tế kỹ thuật, nhưng nhất định phải để lại những khoảng trống lớn, chứ không thể vẽ chen chúc đầy kín vào đó được. Khoảng trống, là đặc điểm của truyện cực ngắn. Có thể nói, truyện cực ngắn là nghệ thuật của khoảng trống. Trung Quốc họa coi trọng việc cân đối giữa hình vẽ và khoảng trống. Bao Thế Thần (Nhà thư pháp đời Thanh – N.D) luận về thư pháp, lại cho rằng nên làm sao để “trên dưới tả hữu mỗi chữ đều có chữ”. Vì vậy, chú ý đến việc “để trống”, thì không gian của truyện cực ngắn sẽ vô cùng rộng rãi dư thừa. Cái gọi là “để trống”, nói một cách giản dị chính là viết ít. Truyện cực ngắn không phải là cắt bỏ bớt mà thành. Một câu truyện mà cắt bỏ quá tàn nhẫn thì có thể nhìn ra được ngay, thường nó sẽ không thuận, không hài hòa, không “tròn”. Nên ngay trong lúc viết khống chế ngòi bút của mình, mỗi khi viết một câu đều phải suy nghĩ xem: câu này có thể không cần viết hay không? Hết sức viết ít, để những gì viết ra đều là những cái cần phải viết, một câu là một câu. Những cái không viết ra cũng vẫn có mặt, có ở “trên dưới tả hữu” của mỗi một câu. Như thế mới có thể đạt đến việc mỗi câu có dư vị, mỗi truyện có dư ý.       

Những bức tranh nhỏ thì càng cần phải chú ý “bút mặc tình thú”. Còn truyện cực ngắn thì cần phải chọn lựa ngôn ngữ. Người xưa luận về thơ rằng: “Thơ thất ngôn tuyệt cú như hai mươi tám hiền nhân, lẫn một kẻ đồ tể, hàng rượu vào là không thể được.” Viết truyện cực ngắn cũng nên như vậy. Truyện cực ngắn tốt nhất chớ để có khí vị của bình sách, của tấu hài, chớ nên dùng lối văn chương nhờn nhã, nửa sống nửa chín. Truyện cực ngắn nên có cảm xúc hóm hỉnh, nhưng không phải là văn chương bỡn cợt. Truyện cực ngắn không nên dùng những câu hiểm hóc kỳ quái, như người đời Tống nói là “lời khù khoằm”. Ngôn ngữ của truyện cực ngắn phải giản dị, bình đạm, nhưng có vận vị.

Dẫu không thể hoàn hảo, song lòng phải luôn hướng tới vậy.

Châu Hải Đường dịch

(Bài trên báo Văn Nghệ số 43, 23/10/2021)


Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2021

KẺ ĐÒI NỢ - (Tàn Tuyết)

 Cuối cùng tôi cũng tống được con mèo của mình ra khỏi nhà. Tôi nghĩ từ nay có thể bắt đầu cuộc sống mới rồi. Tôi ngồi trước bàn nhắm mắt suy tư, muốn sắp xếp lại một chút những suy nghĩ đang rối như tơ vò trong đầu mình. Nhưng tôi đã tính toán nhầm, nó đã quay về rồi và đang không ngừng cất lên những tiếng kêu gào đáng sợ. Tiếng kêu ấy chẳng những không có một chút ý vị cầu xin gì, mà ngược lại đầy oán hờn, thù hận đến mức uy hiếp. Nó còn lấy móng cào, dùng răng gặm vào cánh cửa nhà của tôi. Hết cắn một hồi, nó lại kêu gào một hồi, khiến tôi chợt không lạnh mà run, nghĩ bụng: nếu như tôi để cho nó vào nhà, không chừng nó sẽ thừa lúc tôi không đề phòng mà cắn chết tôi mất.

Đó là một ngày đông lạnh giá, khi tôi nhìn thấy con mèo trong rãnh nước thải trước cửa nhà: một con mèo nhỏ bé, bộ lông màu nâu vàng trên có hai đám trắng, trong mắt ngân ngấn lệ, toàn thân run lên bần bật. Nó còn nhỏ như vậy, có lẽ cũng không hiểu vì sao mẹ nó lại bỏ rơi nó, không hiểu vì sao thế giới này không có chỗ cho nó dung thân, nhưng cũng rất có thể là nó đã làm ra bộ dạng đáng thương ấy để tôi phải thu nhận cho nó ở lại. Khi ấy, tôi cảm thấy có một sự xúc động khó nói nên lời, tựa như muốn thực hiện một điều mới lạ, lại tựa như muốn chống lại những quy tắc sống trước nay của mình. Tôi đã giữ nó ở lại, bế nó vào nhà để xuống bên lò sưởi, lấy sữa, bánh quy và súp cá cho nó ăn. Nó ăn rất nhanh, với một điệu bộ bặm trợn hùng hổ, ăn xong lại còn đạp chân đổ cả bát và đĩa, sau đó đi một vòng khắp quanh nhà, rồi chạy lại ôm chặt lấy chân tôi tiếp tục đòi ăn. Tôi cho nó ăn một miếng thịt, nó ăn hết lại đòi tiếp, như vậy lặp đi lặp lại bốn năm lần, bụng nó đã căng tròn như cái trống rồi mới thôi. Khi ấy tôi muốn giỡn chơi với nó một chút, nên lại vê một nắm giấy, lấy dây treo lên, nhử nhử qua lại trước mặt nó, có ý muốn làm thân với nó. Nhưng nó lạnh lùng đưa mắt nhìn tôi một cái, rồi uể oải đi ra chỗ khác, nhảy vào trong chiếc thùng gỗ đựng giấy loại không ra nữa, một lát sau thì nó ngủ. 

Thời gian trôi đi, ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, ngày nào tôi cũng cho nó ăn những thức ăn ngon, kiên trì lấy lòng nó không biết mệt mỏi. Kết quả của việc ấy là nó mỗi ngày một thêm to béo, bộ lông cũng ngày càng bóng mượt, lượng thức ăn cũng mỗi ngày một nhiều hơn. Nhưng đối với tôi, nó vẫn không hề tỏ ra thân thiết gần gũi một chút nào cả, vẫn cứ làm theo như những gì nó vốn đã làm, đói thì kêu đòi ăn, lấy cho nó chậm một chút là nó liền ôm lấy chân tôi mà cắn, may mà nó cắn cũng không mạnh lắm, chỉ để lại hai dấu răng mà thôi. Bình thường nó chỉ thi thoảng dạo mấy bước trong phòng, mi mắt hơi cụp xuống, ngốc nghếch nặng nề, dáng vẻ lười nhác chẳng thèm quan tâm tới những gì xung quanh, tựa như đang ở nhờ trong nhà của người khác vậy, còn phần lớn thời gian thì nó ngủ lì ở trong chiếc thùng gỗ.

Một hôm, tự nhiên tôi cảm thấy có vẻ thời cơ đã chín muồi rồi, bèn nảy ra một ý tưởng khác thường, muốn cho nó ngủ trên giường của tôi, định dùng cách ấy khiến nó cảm động, để quan hệ giữa tôi và nó phát triển theo hướng thân thiết hơn. Lúc tôi bế nó lên giường, nó chẳng đồng tình chút nào, ra sức chống cự, cào rách cả tay tôi chảy máu đầm đìa, tôi vừa buông tay ra, nó liền nhanh như trộm lủi mất, trốn dưới gầm giường, hai mắt lóe ánh hàn quang, miệng phát ra những âm thanh đe dọa nghe không rõ ràng. Tôi tức giận điên tiết, lấy cái chổi lông gà định đuổi nó ra, nhưng nó bỗng trở nên hành động vô cùng mau lẹ, thoắt cái đã nhảy lên đầu cái tủ đứng, thoắt cái lại chui xuống dưới gầm bàn viết, rồi không chịu ra nữa. Tôi toát dã mồ hôi, trong bụng than thầm: Cuối cùng con súc sinh ấy cũng vẫn có chút cảm tình với căn nhà này. Nghĩ như vậy rồi thì cũng thấy bớt giận đi nhiều. Không ngờ đúng lúc ấy, thì nó đã nhảy lên trên vai, cào mạnh một nhát vào má tôi, làm thành hai vệt rách tứa máu, rồi lại trốn vào dưới gầm giường. Tôi giật mình kinh hãi, ngồi bệt xuống giường , như một quả bóng da bị xì hết hơi. Tôi nghĩ kỹ trước sau, tựa hồ hiểu ra điều gì, lại tựa hồ chẳng hiểu gì cả. Cuối cùng, tôi vứt cái chổi lông gà đi, vờ như đã quên hết những chuyện này.

Bề ngoài tôi không chú ý gì đến con mèo nữa, hàng ngày chỉ lặng lẽ làm công việc của mình. Tất nhiên, tôi vẫn lấy cho nó đồ ăn, và không can thiệp vào hành động của nó, song cũng không còn ảo tưởng gì với nó nữa. Trong lòng tôi xác định nó chỉ là một con mèo hoang bình thường, chỉ là chính tôi đã quá đa tình, muốn phức tạp hóa vấn đề lên. Nhưng thực là như vậy ư? Tôi chẳng phải đã nhận ra một điểm khác lạ nào đó của nó rồi ư? Ví dụ như, trước nay nó chưa từng ra khỏi nhà gặp gỡ một con mèo hoang nào khác cả, nó chỉ ở lì trong nhà, tỏ ra vô cùng cô đơn; Lại nữa, sức ăn của nó cũng rất đáng kinh ngạc, còn ăn nhiều hơn cả tôi.

Như thế ba ngày, con mèo bỗng nhiên nổi đóa lên vì sự lạnh nhạt của tôi, cũng vì tôi đã làm lơ nó. Điệu bộ của nó cho tôi thấy: nó quyết không chấp nhận kiểu làm lơ ấy của tôi, tôi sẽ phải đền bù tất cả. Nhân lúc tôi không có ở nhà, nó nhảy lên bàn viết của tôi, cào tan nát cả thư từ giấy tờ, rồi lại còn đái một bãi lên giường tôi nữa.

Vừa bước vào phòng đã ngửi thấy mùi khai, tôi tức điên lên, đến nỗi ngồi phịch xuống ghế bất động và cảm thấy buồn nôn. Nhưng tôi không nghĩ sẽ trừng phạt nó. Tôi biết làm thế là trúng kế của nó. Thử nghĩ coi, nếu như tôi đánh nó, nhất định nó sẽ kêu gào như hóa rồ, mà càng trả thù tôi hung ác hơn, nham hiểm hơn. Tôi cứ để mặc cho nó đái trên giường, làm loạn trên bàn viết, chỉ cần đem những giấy tờ quan trọng khóa kỹ lại. Thế là cả ngày tôi sống trong cảnh ngửi mùi khai nước đái mèo, hơn nữa còn đem theo cả mùi khai ấy đến văn phòng làm việc, may mà không có ai chú ý. Tôi nghĩ, thực ra con người ta cái gì cũng có thể quen được, nghĩ đã thông rồi thì có thể làm được chẳng khó khăn gì. Con mèo của tôi thấy việc phá hoại của nó chẳng có tác dụng gì, nên đã ngồi im lìm trong thùng gỗ. Đang khi tôi dương dương tự đắc với thành công của mình thì tai họa lại giáng xuống đầu.

Một tối, khi tôi vừa chợp mắt, liền bị một tiếng kêu kỳ quái đánh thức dậy. Tiếng kêu ấy không hề giống tiếng mèo kêu, mà nghe âm u tựa như tiếng ma quỷ đang gào khóc. Không còn nghi ngờ gì nữa, âm thanh ấy là ở trong phòng. Tôi bật đèn, nhỏm người dậy nhìn, thì thấy con mèo của tôi đang ngủ, thế là tôi bắt đầu run lên. Tôi cầm cái đèn pin soi dưới gầm giường hết bên trái lại bên phải rất lâu, lại soi lên trần nhà, soi bên trong tủ đứng, soi tủ bát, kiểm tra chốt cửa đại và cửa sổ, xem xét hết tất cả những nơi có thể cho một con thú hoang nào ẩn nấp, rồi mới thấp thỏm không yên lên giường tắt đèn. Tôi suy nghĩ mông lung, than dài thở ngắn, lăn bên nọ trở bên kia, khó khăn lắm cuối cùng mới chập chờn đi vào giấc ngủ. Nhưng đúng vào lúc tôi vừa thiu thiu ngủ, thì cái âm thanh ấy lại kêu lên. Đích xác là ở một chỗ nào đó trong phòng! Tôi lại vùng dậy bật đèn, chạy thẳng đến chỗ cái thùng gỗ mà con mèo của tôi đang ngủ. Tôi trông thấy nó đang ngủ say sưa, giơ cả bốn chân lên trời vẻ lười nhác. Có phải là nó đang giả vờ không? Nhớ lại hành vi của nó khi trước, tôi càng nghĩ càng cảm nhận rõ ràng chân tướng của nó, nhận ra loại động vật này không thể nuôi được, bèn đưa tay túm lấy nó, định ném ra ngoài cửa. Lúc tôi túm nó lên đi ra cửa, thì nó chợt cắn một miếng thật mạnh vào hổ khẩu[1] trên bàn tay tôi. Tôi kêu ối lên một tiếng, buông tay ra. Nó liền nhanh chóng chui ngay vào gầm giường.

Đêm ấy, vết thương trên tay tôi đau buốt đến tận tim. Trong cơn đau ấy, tôi lại tiến thêm một bước chứng thực rằng: chính là nó! Chính nó đã giả làm tiếng quỷ khóc để dọa tôi. Con súc sinh đáng chết, nếu như nó đã oán hận tôi, cơ hồ muốn đẩy tôi vào chỗ chết như thế, thì làm sao nó lại cứ đòi ở trong nhà không đi? Phải chăng nó muốn chiếm cứ căn nhà này, mà đuổi tôi đi? Không thể nào. Phải chăng nó rất hiểu cá tính của tôi, mà nảy sinh niềm hứng thú với tôi? Dường như cũng không phải. Tôi chỉ có thể nói, nó cứ ở lại đây, là vì ở đây có thể tránh được gió mưa lại có cơm ăn, là vì ở đây nó đã được nuôi ăn đến béo mượt. Nhưng tất cả những điều đó vẫn chưa đủ, nó còn muốn tôi phải từng giờ từng phút quan tâm nó, trọng vọng nó, chỉ cần hơi sơ nhãng là nó liền oán hận, liền tìm cơ hội trả thù. Ngoảnh đầu lại nghĩ, nếu như hồi đó tôi không thu nhận và giữ nó ở lại, thì chẳng phải sẽ không có những phiền phức này ư? Nhưng ai dám đảm bảo rằng cả đời mình không bao giờ có một lần phát tâm từ bi? Và, trong lúc phát tâm từ bi ai có thể dự liệu hết được những điều phiền phức từ đó về sau? Hơn nữa, lúc ấy tôi giữ nó lại thuần túy là xuất phát từ lòng từ bi ư? Có khi nào chính bản thân tôi trong tình hình cùng đường tận lối lúc ấy, đã có ý thức tìm kiếm một thứ để gửi gắm tinh thần không? Tóm lại, tôi hoàn toàn phải tự chịu hậu quả của chính mình.

Cắn tôi rồi, tối ấy nó bèn không kêu nữa. Nhưng vết thương thì sưng tím, tấy lên, không lâu thì tôi bị sốt cao, uống bao nhiêu thuốc cũng chẳng tác dụng, chỉ còn cách vào viện truyền nước, thiếu chút nữa thì biến chứng thành viêm thận cấp gì đó. Coi như tôi đã lĩnh giáo được sự lợi hại của nó! Lúc nằm trong phòng bệnh, tôi nghĩ: Bây giờ ở nhà không có ai, cũng không có gì ăn, nó không được ăn gì cũng chẳng thể trách tôi được, tất cả là do nó gây ra hết. Bây giờ tôi không cần đuổi, nó cũng chỉ còn cách tìm chỗ ở khác thôi, nếu không thì chỉ có chết đói. Không chừng bây giờ rủi lại hóa may, từ nay tôi có thể được yên lành rồi. Nghĩ được như thế rồi, bệnh tình của tôi tự nhiên cũng thuyên giảm đi rất nhiều. Tôi yên tâm nằm trong viện, mỗi một ngày qua lại thấy đó như là một sự trả thù đối với tội ác của nó. Mười ngày sau, cuối cùng tôi cũng được ra viện trở về nhà.



Tôi nhìn thấy con mèo trong căn buồng phủ đầy bụi của mình. Nó gầy đến không thể nhận ra, tập tễnh từ gầm giường chạy lại, không kêu một tiếng, chỉ lượn quanh chân tôi một vòng, rồi lại chui vào gầm giường. Tôi đưa mắt nhìn quanh phòng, tất cả vẫn y nguyên như cũ không hề suy suyển, chỉ có cửa tủ lạnh là mở ra. Tôi không biết nó đã cậy cửa tủ lạnh ra bằng cách nào. Nửa túi xúc xích trên góc tủ lạnh đã biến mất. Xem ra mấy ngày qua, nó đã sống được nhờ vào chút thức ăn đó. Nghĩ đến bộ dạng tham ăn của nó, nước mắt tôi chợt trào ra. Tôi gọi nó ra, lấy cái bánh bao mới mua cho nó ăn, vừa vuốt ve, tôi vừa cất tiếng an ủi cưng nựng nó. Nó ăn xong rồi lại nhảy vào trong thùng gỗ ngủ.

Trong lòng tôi tràn đầy ân hận. Là ân hận vì hành vi của tôi? Ân hận vì những ý nghĩ độc ác đã nảy ra khi tôi nằm viện? Hay là ân hận vì khi trước đã thu nhận và giữ nó lại? Tôi không biết nữa, cũng có thể tôi đã rơi vào cái bẫy mà chính tôi giăng ra rồi.

Tôi quyết tâm phải làm hòa với con mèo của mình. Tôi mua đồ ăn về, ngày nào cũng chăm chút cho nó ăn. Nó thích ăn cái gì thì tôi cho ăn cái ấy. Chưa đầy mười ngày, nó lại trở nên béo tốt đẫy đà, bộ lông trơn mượt, và dáng vẻ của nó lại bắt đầu lộ rõ vẻ nặng nề chậm chạp và tự phụ ấy. Nó chỉ thi thoảng mới đi ra một lúc, còn đại bộ phận thời gian đều giữ vẻ trầm mặc cao ngạo trong thùng gỗ.

Ngày nào tôi cũng ngồi bên cạnh cái thùng gỗ, đưa vết thương trên tay tôi ra cho nó nhìn, không ngừng nói chuyện, kể về dụng tâm gian khó của tôi với nó, về sự báo đáp của nó với tôi, cho tới ý nghĩ báo thù ngẫu nhĩ manh nha trỗi dậy của tôi, và cả muôn vàn ân tình cũng như mong mỏi của tôi với nó. Những điều ấy đều là những điều tôi chưa bao giờ có đối với con người. Vì sao vậy? Vì tôi đã mất hứng thú với con người, tôi cần một tri kỷ như nó, một tri kỷ không phải là đồng loại của mình, cùng nhau quấn quýt, làm bạn bên cạnh tôi trong cái thế giới như một cánh đồng hoang này. Tôi đã vì nó mà thay đổi cuộc sống của mình, trong khi trước nay chưa từng vì bất kỳ ai mà thay đổi bản thân cả. Vì tôi bản tính ương ngạnh, chẳng để ai vào mắt mình cả. Lại có ai giống như tôi, ngày nào cũng làm việc trong mùi khai của nước đái mèo không? Tôi nói ra những điều này, không phải vì muốn nó báo đáp tôi, tôi không cần báo đáp, chỉ là muốn nó và tôi đối xử hữu hảo với nhau, đừng nên nhìn tôi như kẻ thù thế, chỉ cần có một chút lòng thương cảm với tôi cũng được. Lùi thêm một bước nữa mà nói, nếu như nó không quen với việc có lòng thương cảm, thì cứ chung sống hòa bình với tôi cũng được, chỉ cần nó không làm khổ tôi như trước đây nữa. Trong thế giới này, tôi chỉ có một thân một mình, chẳng có gia đình cũng chẳng có họ hàng bè bạn. Mối duyên gắn bó ngẫu nhiên giữa tôi và nó tựa hồ đã trở thành tất cả cuộc sống của tôi. Có thể nghĩ được rằng, nếu như mối quan hệ này trở thành quan hệ đối địch vĩnh viễn, thì trái tim tôi sẽ băng giá thế nào! Hơn nữa, không gian của chúng tôi nhỏ bé thế này, tất cả chỉ có một gian phòng này, nếu như đôi bên tiếp tục coi nhau như kẻ thù, thì kết cục sẽ như thế nào đây? Tôi cứ lải nhải kể lể như thế, nói đến cuộc sống đơn điệu nhạt nhẽo của tôi, nói đến những khổ nạn mà tôi phải chịu trên thế giới này, cuối cùng cơ hồ vừa nói vừa khóc. Tôi hy vọng khơi dậy từ nó dẫu chỉ một mảy may lòng trắc ẩn, cũng mong muốn dẫu chỉ một chút chuyển biến trong quan hệ giữa tôi và nó. Kết quả như thế nào? Đại khái các bạn cũng chẳng thể nghĩ đến: kết quả là tất cả vẫn y như cũ. Muốn cảm động nó, cũng chẳng khác gì chạch đẻ ngọn đa vậy. Không thể. Trong khi tôi đang nói chuyện, thì nó ban đầu là mở một mắt, nhắm một mắt lắng nghe, lộ rõ vẻ coi thường, rồi chẳng bao lâu liền duỗi chân ngủ thẳng cẳng. Đó chính báo đáp của nó với tôi! 

Một tuần sau khi tôi về nhà, thì nó trở nên vô cùng bồn chồn bất an. Mới đầu, nó ở trong thùng gỗ cất tiếng gào nho nhỏ, tựa như bị dồn nén cực độ, sau đó là suốt đêm nó dùng móng cào chân giường của tôi. Những âm thanh ấy rất khó nghe đã đành, lại còn khiến tôi liên tục nằm mơ thấy ác mộng. Tôi nghi ngờ rằng nó đã đến thời kỳ động dục rồi, vì nó là một con mèo đực. Thông thường mà nói, thì kết quả tất nhiên là nó sẽ bỏ đi, trong khi ngoài cửa lại có rất nhiều mèo hoang đang gọi bạn tình. Tôi trở dậy, cầm cái que tre, định đuổi cho nó ra ngoài tìm nơi vui vẻ, cũng để thả lỏng không khí căng thẳng trong phòng. Chẳng ngờ, nó cứ ở lì dưới gầm giường không chịu đi, đánh nó cũng không động. Trước những tiếng kêu gọi đầy kích thích ngoài cửa nó cứ như bịt tai không nghe thấy, tựa hồ nó chẳng phải là đồng loại với lũ mèo ấy vậy. Tôi vừa lên giường, thì nó lại cào. Qua mấy hôm, chân giường xước nát đến không nhận ra nổi nữa, phía trên có hai chỗ bị cào sâu hoắm. Còn tôi, lại tiếp tục với những cơn ác mộng trong tiếng cào móng chân của nó, ngày nào cũng đi làm với nét mặt bợt bạt.

Có lẽ nó cảm thấy cào chân giường vẫn không đã, vào một đêm, trong cơn ác mộng, tôi bỗng nhiên cảm thấy bàn chân mình bị một vật sắc cứa vào. Giật mình tỉnh dậy, tôi nhìn thấy con mèo từ trên giường vụt chạy đi nhanh như bay. Lòng bàn chân tôi đã bị nó cào một vết rách dài.

Sức nhẫn nại của mình đã đến cực điểm rồi ư? Mình nên tiếp tục nhẫn nại tiếp ư? Tôi tự hỏi chính mình. Câu trả lời là: nên tiếp tục nhẫn nại. Còn làm sao nữa? Hiện giờ con mèo đã chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí tôi rồi, nếu như tôi mưu giết nó, thì khoảng trống khổng lồ trong tâm trí nhất định sẽ khiến tôi sụp đổ. Cho nên bây giờ, dẫu thân thể chịu một chút thương tổn, thần kinh chịu một chút phiền nhiễu đều không có gì đáng nói cả. Hơn nữa, kiểu gì chả có cách, tôi có thể đi giày mà ngủ, lấy chăn quấn chặt lấy người. Nếu như nó “tập kích” vào mặt tôi, thì tôi sẽ đội mũ bảo hiểm. Kiểu gì cũng có cách giải quyết.

Tôi thực sự đã mặc nguyên quần áo, đi tất, giày, đội mũ bảo hiểm đi ngủ rồi. Hơn nữa, ban đêm cũng không dám tắt đèn, chỉ lấy tờ báo che chắn bớt ánh đèn đi. Làm như thế, thì nó không đến cào tôi nữa, nhưng nó không thích tôi bật đèn ban đêm, có lẽ nó bị kích thích thần kinh vì việc ấy. Tôi không tắt đèn, thì nó đi moi rương, lục tủ trong phòng, hất đổ vỡ cả bình trà, gương soi. Sau khi gây rối loạn hai đêm, nó lại nhảy lên giường ghé sát bên tai tôi mà kêu, cào vào mũ bảo hiểm của tôi, hung hăng như muốn lại cắn bị thương tôi một lần nữa. Tôi sợ hãi, chỉ còn cách tắt đèn đi.

Đêm đầu tiên tắt đèn không xảy ra chuyện gì cả. Đêm thứ hai thì nó chạy ra ngoài dẫn theo hai con mèo hoang quay về. Hai con mèo ấy đuổi đánh nhau trong phòng, cắn lộn lẫn nhau, rối loạn tưởng đổ đình đổ chùa, trong phòng không ngớt phát ra những tiếng kêu thảm thiết. Tận đến bình minh, hai con mèo ấy mới rời đi. Đêm thứ ba, màn kịch ấy lại tái diễn.

Tôi nghĩ: hơn một năm nay, con mèo của tôi luôn chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay, đã không tơ tưởng xuân tình, cũng không bước chân ra ngoài, tựa như một kẻ theo chủ nghĩa cấm dục. Bây giờ, nó lại dẫn bọn mèo hoang về nhà làm loạn, nhưng bản thân mình không hề đắm chìm vào đó mà theo bọn chúng cao chạy xa bay. Như thế xem ra, đúng là “lão say nào bởi rượu đâu”, mục tiêu của nó chỉ là cốt gây phiền nhiễu cho cuộc sống của tôi, phá đám tôi mà thôi. Nó muốn biến nhà tôi thành nơi tụ họp của lũ mèo hoang, mà bản thân nó thì không nhập bọn vào với lũ chúng, mà chỉ đứng bên cạnh sung sướng xem người khác gặp họa.

Qua mấy hôm, số mèo hoang từ hai con đã tăng lên đến năm con. Tắt đèn rồi, vẫn thấy khắp phòng đầy những bóng đen đi lại nhảy nhót không ngừng, vô cùng đáng sợ. Lúc ấy, còn mèo của tôi lại không đứng trên bàn, hay trên giường nữa. Nó quay vào trong chiếc thùng gỗ, ngủ như không hề có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi thì không cách nào nghỉ ngơi được, vì lũ mèo hoang thấy tôi không đuổi chúng đi, thì càng ngày càng thả sức không kiêng nể gì cả, cuối cùng kéo nhau lên tận giường của tôi mà đánh nhau, con nọ cắn bị thương con kia, phát ra những tiếng kêu gào thê thảm, phải nói là kinh thiên động địa. Trước tình thế thực sự không còn cách nào khác, tôi vùng dậy khỏi giường bật đèn, vớ lấy một cái búa sắt, nhắm đầu một con mèo đen trong bọn chúng lấy hết sức táng xuống. Nó ngã lăn xuống đất, giật giật mấy cái rồi chết. Những con còn lại đều hoảng sợ chạy trốn biệt cả. Tôi sợ run tận trong dạ, nhặt con mèo chết lên, đem ném nó ra bãi rác cách đó hơn trăm mét. Quay về đến phòng, tôi cảm thấy đầu mình căng phồng như quả bí ngô, chỉ muốn đập mạnh đầu vào tường mấy cái. Con mèo của tôi nằm trong thùng gỗ nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng, nó đã chứng kiến tất cả mọi việc từ đầu đến cuối. Tất cả. Nó đang cười nhạt trong lòng.    

Sáng hôm sau, dĩ nhiên tôi lại mang bộ mặt tái xám đi làm. Mấy hôm nay, mọi người đều bàn luận xôn xao, bảo tôi gầy đi đến không ra hồn người nữa. Thậm chí có người còn nói đùa ngay trước mặt, bảo rằng tôi bị hồ li tinh ám rồi. Tôi làm sao có thể nói cho họ biết những chuyện này được? Nếu như tôi nói ra, mọi người lại không cho tôi là người ngoài hành tinh, hay là bị bệnh tâm thần ư? Nhưng, trong văn phòng có người cứ nhất quyết bám lấy tôi, bắt tôi phải khai báo chuyện hồ li tinh bằng được, còn bảo là mọi người đều đang nóng lòng muốn nghe, tôi không thể phụ lòng mong mỏi của mọi người được. Tôi mặc xác hắn ta, hắn bèn ngồi lì trên bàn làm việc của tôi, còn ôm chặt lấy cổ tôi, khiến tôi vô cùng mất mặt. Lúc ấy, khuôn mặt tôi chắc chắn đã xám xịt như miếng gan lợn. Nghĩ đến cái căn nguyên gây ra sự hổ thẹn này cho mình, tôi càng uất hận con mèo. Tôi nhất định phải đuổi nó đi, cho nó vĩnh viễn không thể quay về nữa. Tôi sẽ không tránh né trạng thái tâm lý của mình nữa, trống vắng thì trống vắng, dầu sao cũng còn hơn bị sỉ nhục thế này.

Tôi thầm định sẵn một kế hoạch trong lòng, ngoài mặt không để lộ ra chút gì cả. Lúc về nhà, tôi mua sẵn món cá chiên dầu mà nó thích ăn, rồi nhân khi nó đang ăn một cách sung sướng thì dùng cái túi gai chụp lấy nó, buộc chặt miệng túi, xách trên tay, bắt xe buýt đi ra ngoại ô. Có lẽ nó đã hiểu rõ tâm tư của tôi như lòng bàn tay chăng, mà suốt dọc đường đi nó chỉ nằm im không phát ra một tiếng động, khiến tôi lại cảm thấy do dự. Nhưng nghĩ đến nỗi sỉ nhục đó, ý chí tôi lại kiên định trở lại. Giống như một kẻ độc ác trong chuyện đồng thoại, tôi đem con mèo treo lên một cành cây bên đường, rồi chạy biến mất như một tên tội phạm bỏ trốn. Tôi nghĩ, những người qua đường sẽ cởi nó xuống thôi.

Vì vậy mà đã có câu chuyện đầu tiên ở trên. Tôi yên tĩnh được hai ngày thì nó lại quay về rồi! Như các bạn đã biết, tôi không cho nó vào nhà. Tiếp theo sẽ thế nào đây? Các bạn có thể nói cho tôi biết, sau đây sẽ thế nào không? Tôi thì chỉ biết, tất cả mọi việc từ nay về sau sẽ chẳng thể tưởng tượng được./.

Châu Hải Đường dịch
(TC Văn Nghệ Quân Đội số 973 tháng 9/2021)


[1] Hổ khẩu: Khoảng mở giữa ngón cái và ngón trỏ trên bàn tay.

Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021

Hiếu Nữ (Người con gái hiếu thảo)

 Khu phố Hoa Viện ở ngoài cửa Sùng Văn kinh thành, có mấy ngàn nhà dân, đều sống bằng nghề trồng hoa cảnh. Có một thiếu nữ, phụng dưỡng cha già sống ở khu phố ấy, cũng sinh nhai bằng nghề đó.  Cha cô mắc bệnh hen suyễn, hàng năm đến kỳ lại mắc bệnh. Năm ấy, bệnh tình của ông phát nặng hơn, chỉ nằm trên giường, kêu rên không dậy được, thầy thuốc đến xem bệnh cũng không chữa trị được. Người con gái mất ăn mất ngủ, ngoài mặt thì an ủi cha già, nhưng trong bụng thì riêng vô cùng buồn khổ.

Gặp dịp có một bà lão hàng xóm tụ tập một đoàn đàn bà con gái, định đến núi Nha Kế hành hương. Cô gái bèn hỏi lỏm rằng: “Vì sao phải vào núi hành hương?” Bà lão nói: “Có người là vì thường bị đau ốm, có người là vì không có con, ai nấy đều cầu mong được như tâm nguyện của mình. Thánh mẫu trên núi rất linh thiêng, chẳng gì cầu không được.” Cô gái hỏi: “Từ đây đến núi Nha Kế bao nhiêu dặm?” Bà lão nói: “Hơn một trăm dặm.” Cô gái nói: “Một dặm là bao nhiêu dài?” Bà lão nói: “Ba trăm sáu chục bước.” Cô gái ghi nhớ lấy trong lòng. Đến tối đợi người cha ngủ yên, cô gái bèn lẻn ra ngoài sân, tay cầm một nén hương, thầm ghi nhớ lấy số dặm đường, rồi đi vòng quanh sân, vừa đi vừa bái lạy, trong bụng thần khấn: Con là một đứa con gái thân thể yếu đuối, cha già bệnh nặng, trong nhà lại không có một ai, nên không thể lên núi hành hương được. Bây giờ con xin ở nơi đây, tính toán số dặm đường, số bước chân, kính cẩn mỗi bước bái lạy một vái, cũng coi như mình đến trước núi báu, đích thân bái vọng  thánh tượng, phù hộ cho cha con được lành bệnh nặng, trường thọ khỏe mạnh. Con xin nguyện rằng từ nay sẽ thêu hình Phật, ăn chay trường, trọn đời đỉnh lễ bái Phật.” Cứ như vậy, cứ có thời gian rảnh rỗi là cô gái lại ra sân đi quanh, nhất bộ nhất bái, ngày đêm không nghỉ, đến hơn nửa tháng.

(Tranh vẽ Bích Hà Nguyên Quân)

Truyền rằng trên núi Nha Kế có thờ vị thần Sơn Đỉnh Bích Hà Nguyên Quân, nổi tiếng linh ứng khắp một dải kinh kỳ. Trên từ hậu phi trong cung cấm, đại thần trong triều cùng các vương công quý tộc, dưới đến bách gia trăm họ, vào tháng tư hàng năm, ai cũng lên núi hành hương lễ bái, xe ngựa đến dự hội đông như nước chảy. Từ lúc gà gáy canh năm thì người ta bắt đầu vào điện thắp hương, gọi là “dâng nén hương đầu”. Nén hương đầu nhất định phải do sứ giả trong cung vua và đại thái giám đốt, còn những người khác, không một ai dám tranh đốt trước. Khi ấy có một đại thái giám họ Triệu, phụng ý chỉ của Hoàng thái hậu, đến đốt hương đầu. Vừa mới mở cửa đại điện, đã trông thấy có hương cắm trên bát nhang, hương hỏa đã được thắp đầy đủ. Ngụy thái giám đại nộ, trách mắng người thủ nhang, nói: “Hương của lão Phật gia vẫn còn chưa thắp, sao lại cho người khác thắp hương đầu trước?” Thủ nhang vô cùng kinh hãi nói: “Một khi Ngụy gia ngài còn chưa đến, thì đại điện này đâu có dám mở. Tiểu nhân thực sự không hiểu hương hỏa này là từ đâu ra.” Ngụy công thầm nghĩ: “Lúc mình đến, thì đại điện mới được mở khóa, trông trong lư hương thì tro hương vẫn còn chưa đầy một thốn. Chuyện này thực là kỳ quái đáng sợ. Ngày mai ta sẽ đến sớm hơn một chút nữa vậy, xem xem thế nào.” Bèn vội dặn dò với thủ nhang rằng: “Chuyện đã rồi, ta cũng chẳng truy cứu nữa, ngươi phải đặc biệt cẩn thận, sớm ngày mai, ta sẽ lại đến để dâng hương đầu.” Nói xong liền đi.

Thủ nhang sợ phạm tội, bèn cùng những người trong miếu cả đêm trực ban tuần phòng. Mới canh tư, Ngụy thái giám đã đến. Vừa bước vào cửa điện, lại đã thấy trên bát hương hương hỏa đã thắp đầy đủ cả, có một người con gái đang quỳ lạy dưới đất. Tất cả mọi người đều kinh hãi vô cùng. Người con gái kia nghe thấy tiếng người, thì giật mình đứng dậy, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Mọi người ai cũng cho đó là ma. Ngụy công nói: “Lẽ nào trước mặt thần phật mà ma quỷ dám công nhiên xuất hiện chứ? Nhất định là có nguyên do gì khác, ta sẽ có cách đối phó chuyện này.” Bèn dâng hương thứ hai. Rồi thái giám xuống dưới cửa đền, kê ghế ngồi, cho tụ tập hết khách hành hương lại, kể lại rõ thực tình, đồng thời mô tả kỹ lưỡng cô gái, từ tuổi tác đến dung mạo, áo quần. Khách hành hương đều lấy làm ngạc nhiên. Cuối cùng, có một bà lão, sau khi nghe Ngụy thái giám mô tả, cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Cứ như những gì Ngụy gia ngài vừa nói, thì lẽ nào đó là đứa con gái hàng xóm nhà con? Làm sao nhất nhất từng lời ngài mô tả lại đều giống hệt với nó như thế?” Ngụy công hỏi: “Đó là đứa con gái hàng xóm thế nào, mà lại có thể biến hóa như thế?” Bà lão nói: “Con bé ở khu phố Hoa Viện, vốn là một đứa con gái rất hiếu thảo.” Ngụy thái giám vỗ đùi nói: “Thế thì chẳng có gì kỳ quái cả!”

Ngụy thái giám vội vàng phi ngựa về cung, phục mệnh hoàng thái hậu. Rồi ông bí mật tìm đến nhà người con gái, vào thăm, thấy quả nhiên chính là cô gái ở trên đại điện đền thờ bữa trước. Ông thử hỏi han, cô gái cứ tình thực mà đáp lời rằng: “Con tuy không ra khỏi cửa, nhưng cứ thấy tựa hồ như thân trải qua nơi ấy. Bệnh tật của cha già nay được khỏi hẳn, cũng là nhờ bồ tát linh ứng phù trì.” Ngụy thái giám cảm thán nói: “Lòng chí thành có thể cảm động thần linh, đúng là lòng hiếu thảo tột bực.” Ông bèn nhận cô gái làm nghĩa nữ, coi như con đẻ của mình. Cha già của cô lại được an hưởng thêm ba chục năm no ấm, sống đến trăm tuổi mới qua đời. Cô gái sau lấy chồng họ Trương ở Đại Hưng, của hồi môn rất nhiều, trị giá đến mấy ngàn lạng bạc, đều là một mình Ngụy thái giám lo lắng cho. Nhà người con rể vì vậy cũng đời đời là nhà phú thương.

(Trích "Dạ Đàm Tùy Lục")

Thứ Ba, 3 tháng 8, 2021

CHỢ CÁ (Mạc Ngôn)

Tinh mơ, Phượng Châu - bà chủ quán rượu Ngư Hương đẩy cánh cửa sổ mở ra mặt phố, nhìn xem phong cảnh bên ngoài. Đêm qua trời đổ một trận mưa không to cũng chẳng nhỏ, trên con đường lát bằng những phiến đá xanh vẫn còn đọng những vũng nước mưa cùng vẩy cá phát ánh bạc lấp lánh. Những chỗ không có nước đọng cũng sạch bong sáng loáng. Hơi nước trên mặt đường chầm chậm bốc cuộn lên, đợt đậm đợt nhạt, đợt sáng đợt tối. Đoạn phố lát đá xanh ấy là phố Chợ Cá nổi tiếng ở hương Đông Bắc của huyện Cao Mật, mùi cá tanh nồng nặc nhờ hơi nước triều càng bốc lên mạnh hơn. Gió từ bể nam và gió từ bể bắc, cứ kẻ thổi qua người thổi lại, khiến cá từ bể nam và cá từ bể bắc cùng tụ tập cả ở đây. Những phiến đá xanh trên phố đã nhuộm đầy nhớt cá, dịch tôm, và dãi cua.

Mặt trời qua làn sương mù tỏa ánh sáng hồng. Mấy cửa hàng đối diện đang hạ những tấm ván cửa. Ông chủ cửa hiệu tạp hóa Vu Mắt Sẹo đứng trước cửa, lấy hết sức nhổ một bãi đờm ra giữa phố. Mấy người làm công kín nước giếng té ào ào lên đường. Đức Sinh cũng hạ ván mở cửa, lấy nước dội rửa bậc thềm trước quán ăn. Hai bên phố cùng té nước sang phía đối diện, tựa hồ muốn đẩy hết mùi cá tanh sang nhà bên kia vậy.

“Đức Sinh, đừng dội nữa!” – Phượng Châu nói to.

Đức Sinh ngoảnh lên cửa sổ cười cười, nói: “Cô ơi, hôm nay là ngày phiên chợ, người mua bán đông lắm đấy, có cần gọi em gái cháu đến giúp thêm không?”

Đức Sinh hơn hai mươi tuổi, từng làm đầu bếp cho Đảng bộ huyện, bây giờ làm đầu bếp cho quán rượu Ngư Hương. Quán rượu mặt bằng nhỏ, bày bốn cái bàn, ngồi được mười mấy người. Đức Sinh là cháu họ gần của bà chủ Phượng Châu. Phượng Châu nhìn thấy Đức Sinh lấy tạp dề buộc ngang lưng lau tay, rồi lội qua những vũng nước đọng trên phố Chợ Cá, bước vội đi. Nó đi gọi em gái mình là Đức Tú đến giúp việc trong bếp. Đó là một cô gái khỏe khoắn, trên khuôn mặt ửng hồng lúc nào cũng dính mấy cái vẩy cá màu xám bạc, nhà ở mé đông thị trấn, phơi cá khô bán. Cứ đến quán rượu là lúc nào nó cũng gọi Phượng Châu là cô ngọt xớt.

Sương mù dần tan. Mặt trời đỏ dậy, giống như một cô gái xấu hổ thẹn thùng. “Cái l…!” Cô nghe thấy giọng khàn đặc của một người đàn bà đang chửi ở mãi xa. Cái đấu cột cờ[1] sơn màu đỏ son chót vót từ sâu phía trong, cao vượt lên khỏi mái ngói màu xám của cửa hàng đối diện. Đó là cổng lớn nhà Lưu cử nhân. Đã là thời Dân quốc rồi, mà cái của nợ ấy vẫn được nhà họ Lưu lấy làm tự hào lắm, một năm mấy lần sơn lại. “Cột đấu họ Lưu, Cái l… con đĩ; Thứ năm năm lại sơn; Thứ ngày ngày rửa kỹ.” Thị trấn này thường thường lưu truyền những câu vè như thế, chẳng biết tác giả là ai cả. Lưu đội trưởng – đội trưởng đội bảo an, thề ở quán rượu Ngư Hương rằng phải tra ra kẻ nào đã đặt ra câu vè ấy. “Chỉ cần tao tra ra đứa nào,” – Lưu đội trưởng đập mạnh tay lên bàn, lớn tiếng nói – “Thì tao cắt cu nó cho chó xơi!” Ông ta cởi khuy áo quân phục  màu vàng đất, để lộ ra cây súng lục đeo bên hông trên cái thắt lưng da rộng bản. Đội bảo an có hai mươi mấy người, đóng trong ngôi miếu lớn ở đầu phía tây phố Chợ Cá, nhiệm vụ của họ là bảo vệ trị an địa phương, nhưng không thấy họ làm việc bắt trộm cướp gì cả, chỉ thấy vào sáng những ngày phiên chợ họ lại tập chạy, khẩu hiệu hô váng cả giời.

Họ chạy dọc theo con đường lát đá xanh lại. Mười tám người, chia thành hai hàng. Lưu đội trưởng chạy ở ngoài đội hình, miệng ngậm một cái còi thép, thổi toét toét. Tiếng còi với nhịp chạy của đội hình chẳng ăn nhập gì với nhau, loạn xị bát nháo. Đội viên đội bảo an đều mặc quân phục màu vàng, lưng thắt dây da bò. Ai cũng sắc mặt xám ngoét, đôi môi thâm xì, ánh mắt tán loạn, chẳng có chút tinh thần gì cả. Những chỗ lõm trũng trên đường đá có nước đọng, họ lại nhảy loi choi mà tránh né ra. Trên đường chạy qua chỗ cửa sổ quán Ngư Hương, ai nấy cùng ngoảnh mặt ngước mắt lên nhìn, tựa như đang chào khi qua lễ đài vậy. Cửa sổ quán biến thành đài duyệt binh. Mấy chục cái chân đều không tránh né vũng nước đọng nào cả, khiến vang lên những tiếng lội ào ào. Trên chân họ đều là những chiếc ủng cao su đen, nông dân chưa được xỏ chân bao giờ. Trong đám lính này, chỉ có Nhan Tiểu Cửu chưa đến. Còn lại chẳng ai ra gì.

Tất cả nhìn trước thẳng!” – Lưu đội trưởng nghiêng đầu nói – “Bà chủ quán có sức mạnh thật đấy, kéo nghiêng được cổ hai mươi anh em rồi!”

“Cái cổ rùa của anh chẳng cũng bị kéo nghiêng sang phía ấy đó thôi?”

Ông ta cười hì hì, cầm cái còi đưa lên miệng thổi, vừa dùng ngón tay trên hai bàn tay làm một động tác biểu thị chuyện làm tình, vừa chạy về phía trước.

(Minh họa của HS Tô Chiêm)

Tôm cá bắt đầu được chuyển lên chợ. Những người buôn cá dường đều mặt đỏ tía tai, cổ nối gân, giọng khàn, trên tay dính đầy vẩy cá. Bọn họ ai cũng có một chỗ cố định của mình, chẳng ai xâm phạm địa bàn của người khác. Những người buôn cá đều chân đồng vai sắt, mỗi người một cái đòn gánh bằng gỗ hòe vừa dài vừa rộng, hai giành cá to. Xuống Nam Hải là một trăm năm mươi dặm, lên Bắc Hải là một trăm sáu mươi dặm. Bất luận là đi Nam Hải hay Bắc Hải cũng đều gánh hai trăm cân cá đi và về trong hai ngày. Trên cảng cá ở Nam Hải hay Bắc Hải, đều có bóng dáng của những người buôn cá. Chỗ ngay dưới cửa sổ của Phượng Châu là địa bàn của cha con Lão Cảnh. Những người bán cá đến sớm đều đặt ngang đòn gánh, mở giành cá, bày cá mẫu ra, mở ghế gấp ra ngồi, hút thuốc canh cá. Thời gian vẫn sớm, khách còn chưa đi chợ.

Lại một hồi lâu, trên con phố lát đá xanh mới trở nên náo nhiệt. Những người bán cá chen nhau kéo đến, những quai giành đựng cá bằng da sống ma sát với đòn gánh phát ra những tiếng kĩu kịt vui tai. Họ cất tiếng nói to hỏi han nhau, vang dậy cả nửa con phố. Những con cá hố xám bạc, những con cá thu trắng xanh, những con cá đù đỏ nâu, những con cá chim xám tía, những con cá mực trơn nhẫy tuồi tuội, những con tôm hùm mặc giáp đeo gươm, bày đầy hai bên đường. Mùi cá tanh đậm đặc đến ớn lạnh nhuốm đầy bầu không khí trên phố. “Gánh Sáu” đến rồi. “Vương Lão Ngũ” đến rồi. “Lừa Đen” đến rồi. “Trình Tú tài” đến rồi. “Lão Pháp Hải” đến rồi. “Mèo Khỉ” đến rồi… Trên phố thấp thoáng rất nhiều gương mặt mà Phượng Châu quen thuộc. Riêng chỉ còn thiếu hai gương mặt mà cô quen nhất – Lão Cảnh và con trai anh ta – Tiểu Cảnh. Trên con đường đá xanh cách hai bước trước cửa sổ vẫn trống không. Đó là chỗ bán hàng của Lão Cảnh và Tiểu Cảnh, thường thường hai cha con anh ta luôn đứng đây sớm nhất. Người sớm nhất hóa ra muộn nhất. Phượng Châu cảm thấy trong lòng trống vắng, rồi sau đó lại lờ mờ một cảm giác chẳng lành, tựa hồ có một con rắn nhỏ đang bò quẩn quanh trong chỗ trống vắng ấy. Chẳng có lẽ họ gặp cướp trên đường? Hay là bị thương hàn? Những đội viên đội bảo an tan buổi tập luyện túm năm tụm ba kéo nhau tản mạn quay về, những màu áo vàng chen lẫn với màu áo đen của những người bán cá, tựa như giữa đàn cá thu lạc vào mấy con cá đù vàng. Đám lính đều là những con mèo đói, thiếu bọn họ, phố Chợ Cá thực sự mất hết ý nghĩa. Bọn họ phần đa đều mắc bệnh nghiện thuốc, nghiện rượu, nghiện bạc, nghiện gái, ngoài các chứng nghiện ấy lại còn thêm nghiện cá nữa. Mười mấy “ông lính” ấy là con giun ký sinh trong chợ cá trên con phố đá xanh này. Có chúng thì mọi người không thoải mái, nhưng không có chúng thì có lẽ lại càng không thoải mái. Đám lính đang “mua” cá. Miệng nói là mua, nhưng chỉ là chọn lấy con cá nào to xách đi, chứ chẳng một người nào cởi hầu bao rút tiền. “Ông lớn tối qua tay thối vận đen, thua bạc, cứ tạm ghi sổ nhé, ông chủ!” “Lão tổng, ngài nói đùa gì thế? Ăn có con cá, chúng tôi xin cung kính.” Đám lính xách cá, tên nào tên nấy vẻ mặt tươi cười, thản nhiên kéo đi. Không có một tên nào đến quán nhậu Ngư Hương cả, bọn chúng chưa đủ phẩm cấp. Người ăn cá uống rượu ở quán Ngư Hương là Lưu đội trưởng cơ. Ông ta là người nắm binh quyền trong tay ở thị trấn này, có thể chỉ huy hai mươi mấy tay súng. Theo như ông ta tự nói thì ông ta tốt nghiệp ở trường sĩ quan bên Nhật Bản, nhưng chẳng ai muốn đi chứng minh là ông ta nói khoác làm gì. Địa phương cỏn con này, có thêm mấy người có trình độ học hành lại là chuyện hay.

Lưu đội trưởng xách một con cá tráp đỏ vào quán rượu. Con cá ấy nặng chừng năm sáu cân, Phượng Châu đã sớm liếc thấy rồi. Cá tráp đỏ là thứ cá ngon nhất hạng, không đi thành đàn bao giờ, rất khó bắt. Thịt nó trắng như tuyết, xếp từng lớp như nhánh tỏi, không tanh. Ăn thịt rồi, còn bộ xương có thể nấu được một nồi canh ngon. Gã kia hôm nay cây xăm tinh tường thật, chỉ nháy mắt đã lôi được từ đáy giành cá ra con cá này. “Mèo Khỉ” tiếc đứt ruột, đến nỗi mắt nháy liên tục, nhưng bộ mặt đưa đám vẫn cố nở nụ cười: “Lưu đội trưởng. Con cá này là giữ cho ông lớn Vu. Ông ấy …”

“Hừ! Ông lớn Vu ăn được, chẳng lẽ ông đây không ăn được ư? Mày không nói là giữ cho con lừa già Vu Bạt tai ấy, thì có khi tao còn không đòi của mày. Nhưng mày đã nói thế thì tao lại nhất định phải xách đi mới được.” Vừa nói, tay Lưu đội trưởng vừa sờ vào hộp súng đeo bên thắt lưng vỗ vỗ, khuôn mặt đỏ phồng lên, ra bộ dạng vô cùng tức giận vì bị làm nhục quá lắm.

“Mèo Khỉ” nói: “Ông ngoại con ơi, ông cứ việc xách cá đi cho, chớ có vỗ vỗ mãi cái thứ ấy nữa, kẻo con sợ chết khiếp mất.”

“Biết sợ thế thì được. Lúc nào mà đến nó mày cũng không sợ nữa, thì việc sẽ hơi phiền đấy.” – Rồi Lưu đội trưởng để “Mèo Khỉ” lấy sợi cói xỏ vào mang con cá, xách đi, nói vẻ hảo hán – “Cứ bảo Vu Bạt tai đi tìm tao là được!”

Mèo Khỉ nói: “Không dám! Không dám! Ông ngoại cứ việc đi cho ạ.”

“Đức Sinh!” - Lưu đội trưởng vừa vào quán đã cất tiếng gọi to – “Con cá tráp đỏ này mang đi làm đi, hôm nay là mồng tám tháng tư, lão Diêm vương mừng sinh nhật, tao với cô mày uống rượu uyên ương giao bôi!”

Đức Sinh vẫn chưa quay về. Nghe thấy Lưu đội trường hét gọi ngông nghênh quá, Phượng Châu đẩy cánh cửa nhỏ thông ra ngoài gian quán, lười biếng rời khỏi cửa sổ bước ra.

“Bà chủ, lại bị đau tim ư?” – Lưu đội trưởng chau mày nói – “Lúc nào gặp tôi là cô cũng ra bộ dạng Tây Thi bị ốm như thế. Thế mà cứ gặp Lão Cảnh, Tiểu Cảnh là mặt lại ửng hồng, như con báo cái. Lão gia cung phụng cô lẽ nào vẫn còn chưa đủ ư? Tất sẽ có ngày lão gia đây sẽ quăng hai khối đá ngáng chân ấy, nhổ hai cái gai trong mắt ấy đi.”

Phượng Châu ho một tiếng, nói: “Mau ngậm cái miệng dơ của ông lại! Bà đây chỉ có một mình ông bao cả đấy à?”

Lưu đội trưởng thấy trong quán không có ai, vẻ mặt thèm thuồng sấn lại, vươn cái tay còn dính đầy vẩy cá tráp sờ vào ngực Phượng Châu, nói: “Lão gia muốn học theo chàng bán dầu kia, độc chiếm lấy đóa hoa khôi này[2]!”

Phượng Châu lạnh lùng nhìn đội trưởng Lưu, để mặc những ngón tay nhớp nháp như con cá chình của ông ta tùy ý bò khắp khuôn ngực mình. Một người đàn ông tựa bóng ma, lặng lẽ không một tiếng động từ gian trong quán rượu lướt ra, đáp xuống sau lưng Lưu đội trưởng. Ông ta vươn hai cánh tay run run rẩy rẩy, túm chặt lấy đầu đội trưởng Lưu, miệng cằn nhằn: “Mi là ai? Để đấy ta sờ xem.” 

Mười ngón tay trắng xanh, nhỏ dài của ông ta, tựa như những xúc tu đầy giác bám của con bạch tuộc. Đầu đội trưởng Lưu như co nhỏ lại dưới bàn tay ông ta, mặt cũng biến sắc. Bàn tay đang rờ rẫm khắp ngực Phượng Châu mềm nhũn như bún buông thõng xuống. Bàn tay người đàn ông kia tựa hồ có một thứ phép thuật, hóa ra một tấm lưới vô hình không nhìn thấy được, giam giữ chặt Lưu đội trưởng lại. Lưu run rẩy như cầy sấy để mặc cho ông ta sờ nắn.

“Lưu đội trưởng!” – Bàn tay của của gã mù dừng lại tại chỗ yết hầu của Lưu, rồi đột nhiên buông ra, gã ho hắng, sờ lần đến bên một cái bàn ngồi xuống, lớn tiếng gọi: “Đức Sinh! Ta muốn uống trà.”

Phượng Châu cũng nói lớn: “Anh đợi chút. Đức Sinh nó về nhà gọi Đức Tú rồi!”

Gã nói: “Em vẫn còn đau tim chứ?”

Phượng Châu đáp: “Vẫn còn.”

Gã nói: “Em phải học như anh, uống trà đặc vào. Em là bị độc cá công vào tim, cả đời em đã ăn bao nhiêu cá rồi?”

Đức Sinh đã dẫn Đức Tú về tới nơi. Đức Tú vóc người cao lớn, giống như một con cá trắm tươi bụng đầy trứng. Cô ta cất tiếng chào cô thật to. Gã mù gọi Đức Sinh, đòi lấy trà. Lưu đội trưởng đã lấy lại được sức sống, nói: “Anh cả mù, cái món Âm hồn bát quái chưởng của anh đúng là lợi hại. Anh sờ vào tôi một lần mà đến nửa năm tôi không làm ăn gì được với đàn bà cả”

Đức Sinh xách một bình trà lớn bằng đất nung miền Nam lên, để vào giành ủ, đưa đến trước mặt gã mù, nói: “Thưa chú, trà đây ạ.”

“Trà ngon, trà ngon! Đức Sinh, đi làm việc của cháu đi, chú có bình trà này là được rồi.” Gã mù đưa mũi hít lấy hít để một cách tham lam, nói: “Không uống trà, thì không sống được quá năm mươi tuổi ở cái phố chợ cá này. Độc cá công tâm mất.”

Gã mù uống trà, tất cả tinh thần đều chăm chú vào việc ấy, mà bước vào cảnh giới vong ngã, quên cả bản thân mình. Phượng Châu xách con cá tráp đỏ, nhìn nhìn, rồi ném vào trong chậu, nói: “Đức Sinh, con cá này của Lưu đội trưởng, ông ấy muốn ăn thế nào, thì ông ấy sẽ bảo nhé.”

Lưu đội trưởng chằm chằm nhìn Đức Tú nói: “Tôi muốn cô làm cho tôi.”

Đức Tú nói: “Được thôi. Việc đội trưởng Lưu đã dặn thì đến Ba Đen cũng không dám không làm!”

Lưu đội trưởng giật mình sững người giây lâu, nhìn thần thái tự nhiên của Đức Tú, cánh mũi khịt khịt, rồi bật ho mấy tiếng khó chịu.

Phượng Châu ôm lấy ngực, đôi môi tái xanh, quay lại chỗ cửa sổ. Quang cảnh trên chợ cá lại thân thiết ùa vào tầm mắt cô. Trình Tú Tài bày ra một giành cá chình. Những con cá trơn nhẫy ấy phát ánh sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, khiến cô cảm thấy buồn nôn. Cô nhớ đến cảnh tượng vào một buổi sáng cách đây khá lâu, một người đàn ông đã lấy một con cá chình nhét vào miệng một người đàn bà. Tuy Phượng Châu không nhìn thấy gương mặt chính mình, nhưng cũng biết rằng mặt mình đã tái nhợt, giống như màu da bụng của một con cá nheo đã chết. Đôi môi nhất định tím tái rồi, giống như mắt của con cá trắm vậy. Phía trước cửa sổ vẫn trống không, cha con Lão Cảnh vẫn chưa thấy đâu cả.

Đội trưởng Lưu ngồi sau lưng Phượng Châu, vươn tay sờ nắn cô, nói: “Em Phượng Châu à, em thật là nhẫn tâm đấy, nói không thèm để ý đến tôi là không để ý ngay. Thế cái thằng Lão Cảnh, một thằng bán cá khắp người tanh ngoéo mùi cá, rốt cuộc có cái gì hay? Tôi mà tức lên tôi bẹp hết giành cá của nó, chặt gẫy đòn gánh của nó.”

Phượng Châu không quay đầu lại, chịu đựng ông ta lần mò khắp trên người mình, nói: “Lưu đội trưởng, với thân phận, địa vị của ông, ông muốn tìm đàn bà nào mà chẳng được? Làm sao ông cứ phải nhọc lòng đến phiền một người đàn bà khắp người toàn mùi cá tanh như tôi làm gì? Tôi như thế nào, đâu phải ông chưa từng nếm trải qua rồi, ông tha cho tôi có được không?”

Đội trưởng Lưu nói: “Đúng là một trinh nữ, muốn thủ tiết cho Lão Cảnh đây! Cái hang cắc cớ của cô, cá chình cũng chui vào rồi, cá trắm cũng chui vào rồi, cá thu cũng chui vào rồi, cá hố cũng chui vào rồi, còn giả vờ chính chuyên cái gì.”

Phượng Châu nói: “Các thứ cá đều nếm trải cả rồi, nên mới biết cá ngừ là đáng giá nhất!”

Lưu nói: “Cô định làm gì? Vứt cái quán này, bỏ gã mù kia, chạy theo Lão Cảnh?”

Cô nói: “Tôi dựa vào cái gì mà vứt cái quán này? Dựa vào cái gì mà bỏ anh mù? Tôi không đi đâu cả, tôi trải ổ chăn ấm đợi Lão Cảnh đến ngủ.”

Lưu nói: “Được, được, được! Lại để cho Lão Cảnh thối tha kia độc chiếm hoa khôi!”

Những con cá trên phố mời gọi đến vô số ruồi nhặng, những người bán cá đều phải phe phẩy cái quạt lá đề đuổi chúng đi. Một gã ăn mày, tay trái bưng cái mũ bông rách, tay phải cầm con dao cạo, xuất hiện ở chợ cá. Hắn đứng trước mặt những người bán cá đưa cái mũ bông ra, trợn mắt giương mày nói: “Đưa tiền đây!”

Người bán cá vừa thấy bộ dạng ấy của hắn, thì biết ngay hạng “rạch mặt” này còn khó chịu hơn cả giống nhặng đầu xanh, vội vàng móc túi ra lấy một tờ tiền giấy dính đầy mùi cá tanh, để tống khứ ông kễnh ấy đi. “Mèo Khỉ” không biết là phạm phải hạng đầu bò đầu bướu gì, giọng quang quác nói: “Thế này còn buôn bán cái gì nữa? Nửa buổi sáng rồi, mà đến một cái vẩy cá cũng không bán được, đã phải biếu không hai con cá tráp đỏ rồi, lính cướp thì cũng thôi, chứ cái thứ chó ghẻ như mày mà cũng bá đạo thế à? Kiếp trước ông vay nợ chúng mày hay sao?”

Tên rạch mặt cầm cái mũ rách dí vào tận mũi “Mèo Khỉ”, nói to: “Đưa tiền đây!”

“Mèo Khỉ” nói: - Không có tiền! Mày đi đi!

Tên rạch mặt giơ con dao cạo lên, nói: “Không đưa tiền, tao rạch mặt!”

“Mèo Khỉ” nói: “Mày có cắt cả đầu xuống tao cũng không có tiền.”

Những người bên cạnh khuyên bảo: “Lão Tôn, cho nó mấy đồng lẻ cho nó đi đi, kẻo lỡ việc buôn bán ra.”

“Mèo Khỉ” nói: “Buôn dọc bán ngang cũng đều chẳng xong, nó muốn rạch mặt thì cho nó rạch đi!”

Tên rạch mặt la lên oai oái, kêu to: “Đời bất công quá, áp bức người ta không sống được nữa thế này à?” Rồi nó đưa con dao cạo lên, rạch lên trán một nhát, rách da lòi thịt, máu chảy đầm đìa, lại đưa bàn tay, quệt lên mặt một cái, lập tức trông mặt mũi dữ dằn, khiến người khác phải sợ run từ trong xương tủy run ra.

Những người rỗi việc trong chợ cùng vây lại xem, bọn vô lại trộm vặt nhân cơ hội luồn qua những khe chân người lấy trộm cá của “Mèo Khỉ”.

Lưu đội trưởng cầm khẩu súng lục đi lại, dí nòng súng vào sườn những người đứng xem, rẽ ra một lối đi, bước đến trước mặt tên rạch mặt, ấn mũi súng vào dưới cằm nó, cười khẩy nói:

“Vương A Cẩu, mày luyện được cái ngón nghề này từ bao giờ thế? Phố Chợ Cá này là chỗ cho mày kiếm ăn đấy à? Thích rạch mặt? Được thôi, rạch đi, tiếp tục rạch nữa đi, chứ một vết thương cỏn con ấy thì vu vạ được ai? Rạch! Rạch đủ bốn mươi tám nhát cho tao, thì tao thưởng cho mày hai đồng bạc trắng!”

Tên rạch mặt Vương A Cẩu ném con dao, quỳ xuống đất nói:

“Lưu đội trưởng, xin tha cho tôi. Trong nhà tôi còn mẹ già tám mươi, chỉ dựa vào tôi kiếm cho miếng cơm ăn …”

“Mẹ mày đã chết từ tám hoánh nào rồi, còn dám nói dối tao!” – Lưu đội trưởng vừa mắng, vừa rút cái còi ra, thổi toe toe, mấy tên lính đang đi xoi mói kiếm cớ vặt tiền trên phố chợ cùng chạy cả lại.

Lưu đội trưởng nói: “Đem tên gây rối trật tự trị an xã hội này ra bờ sông xử tử!”

Mấy tên lính như hùm như sói xông tới, bẻ giật tay tên rạch mặt, lôi nó đi. Tên rạch mặt bấu hai chân xuống đất, kêu lên thất thanh:

“Đội trưởng tha mạng! A Cẩu không dám làm thế nữa …”

Lưu đội trưởng cười nhạt nhìn “Mèo Khỉ”. “Mèo Khỉ” trên trán toát mồ hôi lạnh, hai chân run lẩy bẩy.

“Mèo Khỉ! Ăn con cá tráp của mày, là tao hạ cố đến mày đấy. Mày tưởng là bản đội trưởng đây không mua nổi một con cá ư?” – Vừa nói, Lưu vừa vỗ vỗ vào bên sườn – “Có nó tức là có tiền! Mày nói xem, tao còn thiếu mày bao nhiêu tiền? Có cần mày chửi khắp phố thế không?”

Mèo Khỉ xoa xoa bàn tay, rồi vừa vả bôm bốp vào mặt mình, vừa chửi: “Đánh! Đánh! Đánh chết mày đi cái thứ không ra gì!”

Lưu đội trưởng lầm bầm chửi rồi đi đến bên cửa sổ, nói:

“Cứ như chúng tôi ăn uổng cơm ấy! Hừ, có chúng tôi ở đây, bọn côn đồ lưu manh mới không dám làm bậy, không có chúng tôi, chỉ e là chẳng có một ngày được bình yên đâu.”

“Lấy được uy phong rồi! Ông có bản lĩnh thì diệt trừ thằng đầu gấu Ba Đen đi!” – Phượng Châu bám trên khung cửa sổ nói.

“Cô nghĩ là tôi không làm sao diệt trừ nổi tên ấy ư?” – Lưu nói – “Những chuyện này, đàn bà con gái các cô căn bản không hiểu được đâu!”

Phượng Châu bĩu môi, không thèm nhìn ông ta nữa. Khi ấy, Đức Tú đã chạy ra cửa quán gọi to:

“Lưu đội trưởng, cá của ông chín rồi. Anh cháu bảo ông ăn ngay cho nóng, kẻo để nguội lại tanh.”

“Bà chủ, cô cùng ngồi tiếp tôi chứ?”

“Tôi đâu có cái phúc ấy.”

Lưu đội trưởng ngập ngừng bước vào trong quán. Những cái vẩy cá lấp lóa làm Phượng Châu chói mắt. Một con chó ghẻ ngậm một con cá thu lớn chạy trên đường đá, những người bán cá ngồi hai bên đường cùng nhất tề hô đuổi đánh, nhưng không một ai đứng dậy. Con chó ghẻ ngậm cá cứ thủng thẳng chạy đi. Trước cửa sổ vẫn trống không, nhưng trong lòng Phượng Châu còn trống vắng hơn nữa. Cô hỏi Vương Lão Ngũ:

“Lão Cảnh và Tiểu Cảnh trên đường xảy ra chuyện gì hay sao?”

Vương Lão Ngũ nói: “Tám phần là bị con hồ ly tinh trắng ở trên Doanh trấn, dưới Bắc Hải mê hoặc rồi!”

Phượng Châu nói: “Lão Ngũ chết tiệt! Tôi hỏi nghiêm túc đấy.”

Lão Ngũ nói: “Thì tôi cũng trả lời cô nghiêm túc đấy chứ! Cô không biết đâu, trên đời này có hai loại đàn ông không nên giao thiệp, đó là hai loại đàn ông nào? Là lính tập, và buôn cá. Những thớ thịt trắng muốt như tuyết của con bạch hồ ly ấy, ăn một lần lại muốn ăn lần nữa, càng xuống dưới lại càng hay … Ha ha ha … một gò Bạch hổ chẳng sợi cỏ mọc … Cảnh đại ca chẳng phải là một con Thanh long – rồng xanh đấy ư?”

Tiểu Nguyên đang ở bên cạnh cũng nói chõ vào: “Cảnh đại ca có phải là con rồng xanh không, thì chỉ có bà chủ biết!”

Phượng Châu mắng: “Tiểu Nguyên, nhà người bên tây nuôi lừa, nhà cậu bên đông cũng phải vươn cổ ba ba ra đấy hẳn!”

Tiểu Nguyên cười hì hì, nói: “Tiên cô à, bao giờ cũng phải cho chúng tôi nếm một bữa tươi với, ai đời ba chục tuổi đầu rồi mà chưa sờ vào da bụng đàn bà con gái bao giờ.”

Cô nhổ một bãi nước bọt về phía Tiểu Nguyên, mắng bảo: “Đem câu ấy về mà lừa mẹ cậu ấy! Mấy tên buôn cá ranh ma các cậu, có đêm nào mà không bò lết trên bụng đàn bà!”

Tiểu Nguyên nói: “Thế Lão Cảnh thì thế nào?”

Cô nói: “Cả lũ các ông, chỉ có mình Lão Cảnh là người thực thà.”

Lão Ngũ nói: “Thực thà? Tay Lão Cảnh này ấy … Ôi chà, kia chẳng phải là con lừa của Tiểu Cảnh hay sao?”

Phượng Châu vươn cả nửa người ra ngoài cửa sổ, ngoảnh về phía đông trông ngóng. Từ phía mặt trời mọc, một con lừa với bộ lông tỏa sáng đang chạy lại. Trong đám buôn cá, duy nhất một người không dùng đòn gánh gánh cá mà dùng một con lừa chở cá, đó chính là thằng Tiểu Cảnh gầy còm mười bốn tuổi. Bình thường, từ sáng sớm ngày phiên chợ, Lão Cảnh gánh hai giành cá, với cái đòn gánh to bóng loáng, tựa như một con chim lớn đang lướt bay. Còn Tiểu Cảnh thì đuổi con lừa gùi hai giành cá trên lưng, cắm cúi chạy theo sau Lão Cảnh cũng nhanh như gió. Móng con lừa nhỏ gõ lên đường đá xanh những tiếng cốp cốp cốp cốp, một chuỗi âm thanh dài liên tục … Những lúc ấy, con sóng trào dâng trong tim Phượng Châu khó mà lặng tĩnh được, giống như một người vợ đang trông ngóng chồng, con trở về vậy.

Con lừa nhỏ lững thững đi xuyên qua chợ cá, dừng lại trên đoạn phố lát đá trước cửa sổ của Phượng Châu. Nó cúi đầu, đứng im không động đậy. Ánh mắt ngạc nhiên của những người bán cá đều đổ dồn cả lại.

Phượng Châu nhảy ra khỏi cửa sổ, mở lắp giành đeo hai bên hông con lừa ra.

Cô kêu to lên một tiếng, rồi đổ khuỵu xuống dưới chân lừa.

Hai cái giành con lừa gùi trên lưng không có cá. Trong giành bên trái là đầu của Lão Cảnh, trong giành bên phải là đầu của Tiểu Cảnh.

 

Châu Hải Đường dịch

(In trên VNQĐ số 969, cuối tháng 7-2021)



[1] Đấu cột cờ: là một cột cao, phía trên để hình đấu gỗ, là biểu tượng Khôi tinh – sao chủ văn chương đỗ đạt. Tục thời phong kiến của Trung Quốc xưa, những nhà có người thi đỗ cử nhân, tiến sĩ thì được dựng cột đấu cao sơn đỏ để hương thôn biết. Vì thế người ta coi cột đấu là biểu tượng vinh dự cho gia đình.

[2] Chàng bán dầu độc chiếm hoa khôi: là tên một truyện trong tập “Tỉnh thế Hằng ngôn” của Phùng Mộng Long, kể chuyện danh kỹ nổi tiếng kinh thành Sằn Dao Cầm cuối cùng lấy chàng bán dầu Tần Chung.


 

(Nhà văn Mạc Ngôn)

Mạc Ngôn tên thật là Quản Mô Nghiệp, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1955, tại Cao Mật, Sơn Đông. Tuổi thơ của ông nằm trọn trong thời kỳ “Ba năm khốn khó” (tức ba năm thời kỳ Đại Nhảy Vọt 1959 – 1961) trong lịch sử Cận đại Trung Quốc, điều ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đối với ông. Năm 1966, ông vì Đại Cách mạng Văn hóa nên phải bỏ học, lao động ở nông thôn suốt 10 năm, với công việc chủ yếu là làm nông nghiệp: trồng cao lương, trồng bông, chăn bò, cắt cỏ… Năm 1976 ông tham gia quân đội, từng làm các chức vụ tiểu đội trưởng, nhân viên bảo mật, quản lý thư viện, giáo viên, cán sự … Trong bốn năm làm nhân viên quản lý thư viện trong bộ đội, ông đã đọc rất nhiều sách văn học, triết học cũng như lịch sử … có lẽ cảm hứng sáng tác văn chương đã đến với ông từ những năm tháng ấy. Tháng 5/1981 Mạc Ngôn phát biểu truyện ngắn “Xuân dạ vũ phi phi” (Đêm xuân phơi phới mưa) trên song nguyệt san “Liên Trì” ở Bảo Định, Hà Bắc. Năm 1984 ông được tác gia Dư Hoài Trung đặc biệt mời tham gia ứng tuyển vào khoa Văn học của Học viện Nghệ thuật Giải phóng quân. Năm 1985 ông trở nên nổi tiếng với truyện vừa “Củ Cải Đỏ Trong Suốt” sau khi đăng trên tạp chí “Trung Quốc tác gia”, năm 1986 lại khiến văn đàn rung động với tiểu thuyết “Cao Lương Đỏ” – tiểu thuyết mà ngay năm sau đó đã được Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim truyện và ông đảm nhiệm vai trò biên kịch. Những năm sau đó ông liên tục có nhiều sáng tác như: “Thiên đường toán đài chi ca” - Cây Tỏi Nổi Giận (1988), “Thực thảo gia tộc” – Gia Tộc Ăn Cỏ (1989), “Tửu quốc” (1993), “Phong nhũ phì đồn” – Báu Vật Của Đời (1996), “Hồng thụ lâm” -  Rừng Cây Đỏ (1999), “Đàn Hương Hình” (2001), “Tứ thập nhất pháo” (2003), “Sinh tử bì lao” – Sống Đọa Thác Đầy (2006) … Năm 2009 Mạc Ngôn xuất bản tiểu thuyết “Oa” - Ếch. Năm 2011, ông nhận Giải thưởng văn học Mao Thuẫn với tác phẩm này. Mạc Ngôn giành được giải Nobel văn học năm 2012 và trở thành nhà văn (quốc tịch) Trung Quốc đầu tiên nhận giải thưởng ấy. Đến nay, nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn với đủ thể loại: tiểu thuyết, tạp văn … đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Trên VNQĐ số này chúng tôi xin giới thiệu với độc giả truyện ngắn “Chợ Cá” của ông – một truyện ngắn đã được tuyển chọn vào tập “Một trăm Truyện ngắn Kinh điển Trung Quốc 1901 – 2000”