Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014

Châu Uyển Như và chùm thơ “Ngư – Tiều – Canh – Mục”

Châu Uyển Như (1824 – 1864) tự hiệu Nhẫn Tương Nữ Sử, Ngâm Thu Sơn Quán Chủ Nhân, người huyện Tất Tiết, Quý Châu, là nhà thơ nữ nổi tiếng đời Thanh. Cha bà – Châu Phượng Cương đậu Hàn Lâm trong những năm Đạo Quang, làm quan tri phủ Miên Châu – Tứ Xuyên. Châu Uyển Như từ nhỏ thiên tư mẫn tuệ, thông minh ham học, giỏi làm thơ từ, lại có năng khiếu thư họa, thông hiểu âm luật. Theo cha ngụ cư ở Tứ Xuyên hơn mười năm, đã giao lưu với nhiều người nổi tiếng trong giới thơ văn, nhân có tài hoa xuất chúng, nên được gọi là Quý Châu tài nữ, “Tiến sĩ tóc dài”. Năm Đạo Quang thứ 22 (1842), bà được gả cho Hoàng Dục Đức người phủ Đại Gia, Quý Châu (nay là huyện Đại Phương). Hôm kết hôn, vào tân phòng, lúc ấy đã đến nửa đêm, mà mọi người vẫn vây quang chưa tan, bắt bà đi mười bước phải làm một bài thơ. Bà ứng khẩu đọc:

Thâm thâm nhất tập tạ chư quân;
Nô bản vô tài bất hội ngâm.
Ký đắc Đường nhân thi nhất cú;
Xuân tiêu nhất khắc trị thiên câm.

(Tạm dịch:

Vái dài một vái tạ chư quân;
Thơ phú nô gia chẳng giỏi giang.
Chỉ nhớ Đường thi từng có nói:
Đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng.)

Sau khi kết hôn, vợ chồng mười phần ân ái, thường làm thơ ngâm họa. Ngoài ra bà lại thường cùng với các danh nhân, học sĩ như: nữ thi nhân đương địa là: Trần Thẩm Vân, cháu ngoại: Chương Vĩnh Khang, cháu họ:  Dương Bạt Chương … qua lại xướng vịnh với nhau. Không lâu sau, chồng bà lên tỉnh ứng thí, bà liền viết bài từ Túy Hoa Âm tiễn chồng:

Liêm quyển tây phong hàn dục thấu;
Cảm biệt sầu y cựu.
Nhất viện mộc tê hương; mộng hồn ảnh lý, chính đoạn trường thời hậu.
Thu lai nhân cộng hoàng hoa sấu;
Lãnh phách hương doanh tụ.
Mạn đạo nhân đoàn viên, tư lượng quy kỳ, ưng tại Trùng Dương hậu.” 

(Tạm dịch:

Rèm cuốn gió tây nghe giá rét;
Vẫn vậy, sầu ly biệt.
Hương quế ngát đầy sân, mộng hồn bảng lảng, chính lúc lòng tan nát.
Thu về, như cúc người gầy quắt.
Tay áo hương lạnh ngắt.
Nói phiếm chuyện đoàn viên, nghĩ đến ngày về, hẳn buổi Trùng Dương hết.)

Bài từ miêu tả nỗi nhớ chồng, được người sau ca ngợi, có thể thấy mang dấu ấn đậm nét của từ Lý Dị An. Sau chồng bà đi nhậm chức Phiên khố Sảnh thừa ở Quảng Đông, vì binh hỏa liên miên, thư từ gián đoạn, vợ chồng mỗi người một nơi, gia đạo suy vi, cuộc sống khó khăn, phải sống những năm tháng nghèo khổ bệnh tật. Tới tận năm Đồng Trị thứ ba (1864) bà mới liên lạc được với chồng mình, bèn lên đường đến Quảng Đông, chỉ một lòng mong được sớm đoàn tụ cùng nhau. Ai ngờ lại gặp khi binh loạn, bà chỉ còn cách quay trở lại Vân Dương, Tứ Xuyên, ở nhờ nhà người em rể là huyện lệnh Vân Dương – Dương mỗ. Không lâu sau có tin chồng bà đã qua đời truyền đến, trong lòng vô cùng đau buồn, bà mắc bệnh ít lâu thì mất, khi ấy mới 40 tuổi. Bà để lại các tập: “Ngâm Thu Sơn Quán thi sao” “Từ sao”. Thơ của bà thường ần gũi với đời sống, nhẹ nhàng tế nhị, sinh động truyền cảm, nhiều bài về cuộc sống gia đình đời thường. Có lẽ vì vậy mà được nhân dân yêu mến, nhớ thuộc.

Vừa qua, có người bạn của Châu Hải Đường cho xem một chiếc bình sứ trên đó có chép mấy bài thơ chữ Hán, đọc xong tìm hiểu thêm thì hóa ra đó là chùm bài thơ vịnh cảnh Ngư Tiều Canh Mục – vốn được viết trên bình phong - của Châu Uyển Như. Qua đó, có thể thấy rằng thơ ca của bà đã được đi sâu vào đời sống thường nhật của nhân dân như thế nào. Nội dung bốn bài thơ Ngư – Tiều – Canh – Mục như sau:




柳貫魚歸正午時,兒童門外笑嘻嘻.
問翁何事收竿早,懶看沙頭鷸蚌持.

脫卻烏巾去打柴,白雲滿地襯芒鞋.
老妻囑咐輕挑擔,莫踏高崗與險崖.

農事紛紛日夜忙,問渠餘有幾多糧.
阿婆笑指南山下,小麥青青大麥黃.

束髮孩童枕地眠,朦朧細雨草生煙.
醒來不見黃坡犢,尋到落花流水邊.

Phiên âm:

Liễu quán ngư quy chính ngọ thì;
Nhi đồng môn ngoại tiếu hi hi.
Vấn ông hà sự thu can tảo;
Lãn khán sa đầu duật bạng trì. ( Vịnh Ngư)

Thoát khước ô cân khứ đả sài;
Bạch vân mãn địa thấn mang hài.
Lão thê chúc phó khinh khiêu đảm;
Mạc đạp cao cương dữ hiểm nhai. (Vịnh Tiều)

Nông sự phân phân nhật dạ mang;
Vấn cừ dư hữu kỷ đa lương.
A bà tiếu chỉ Nam Sơn hạ;
Tiểu mạch thanh thanh, đại mạch hoàng. (Vịnh Canh)

Thúc phát hài đồng chẩm địa miên;
Mông lung tế vũ thảo sinh yên.
Tỉnh lai bất kiến hoàng pha độc;
Tầm đáo lạc hoa lưu thủy biên. (Vịnh Mục)

Tạm dịch thơ:

Cá xâu cành liễu giữa trưa về;
Lũ nhóc ngoài sân hớn hở ghê. 
Hỏi lão thu cần sao sớm vậy? 
Trai cò ngoài bãi chán không nghe!

Lên non hái củi, cởi khăn đầu; 
Hài sảo miên man mây trắng theo; 
Gánh nhẹ khăng khăng lời vợ dặn . 
Núi cao, vách hiểm chớ ham trèo.

Đêm ngày bận rộn việc nông tang; 
Dám hỏi dư thừa được lắm chăng? 
Mẹ cháu cười xòa, chân núi chỉ; 
Tiểu mạch xanh xanh, đại mạch vàng.

Mục đồng tóc búi, bãi bên khò; 
Mưa nhỏ lâm thâm, cỏ khói mờ. 
Tỉnh dậy nghé con đâu chẳng thấy; 
Tìm nơi hoa rụng, nước xô bờ.


14.12.2014
(Châu Hải Đường)