Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2019

VỀ SÁNG TÁC TẢN VĂN - Phùng Ký Tài


(Trả lời phỏng vấn của tạp chí “Trung Hoa Tản Văn”)

HỎI: Từ sau năm 1990, trên văn đàn xuất hiện hàng loạt những làn sóng về tản văn với đủ hình thức muôn màu muôn vẻ mà trước đây chưa từng có, như “tản văn nữ”, “tản văn đại văn hóa”, “tản văn tiên phong”, “hậu tản văn”, tản văn trên các báo chí cũng như tản văn trên mạng…Trước cơn sốt về tản văn như vậy, ông thấy như thế nào?
Phùng Ký Tài (PKT): Do sự thị trường hóa của văn hóa, trước “cơn sốt tản văn” mà đợt sóng này chưa lắng xuống, đợt sóng khác đã dâng lên, phải thật sự thận trọng. Nó có thể là việc “xây dựng thương hiệu” của một nhà buôn đạo diễn. Tất nhiên, cũng có thể đó là một kiểu “xây dựng văn hóa”, đó là một căn bệnh cũ trên văn đàn. Thích tiếng tăm, thích phong trào, thích tạo nên những làn sóng, thích có một lý do và một vị thế. Tựa hồ như vậy thì có thế thừa thắng xông lên, người đông thế mạnh, thành tâm điểm một thời. Thường thì sau khi cơn “sốt” đã hạ nhiệt, khói lặng mây tan rồi, cái còn lưu lại chỉ là một khoảng trống hoang vu. Thực ra tản văn rất cần một tâm thái bình thản. Một bộ tiểu thuyết có thể gây ra một trận “kinh thiên động địa”, nhưng một thiên tản văn thì không thế được, tản văn không có một trọng lượng cũng như năng lượng lớn như thế.
HỎI: Những sáng tác tản văn gần đây, ông nhận thấy còn tồn tại những vấn đề gì đáng phải chú ý?
PKT: Lặp lại lẫn nhau, tạo tác mà không tự nhiên, đáng sợ nhất là tình cảm giả tạo.
HỎI: Một con cá nhỏ, sau khi đã lớn lên, thì không thể sống được trong cái bể nhỏ nữa. Nó được thả về biển. Thế nhưng sau đó, con cá ấy rất khổ sở, bởi vì nó không bao giờ có thể chạm vào cái thành bể cá nữa. Cái thành bể cá ấy, chính là định nghĩa mà người ta đặt ra cho tản văn trước kia. Lấy thực tiễn sáng tác của ông làm tiêu chuẩn, xin ông hãy đưa ra một định nghĩa mới “thế nào là tản văn”, nói một chút những nhận thức cơ bản của ông đối với tản văn.
PKT: Khi con cá nhỏ chạm vào được tâm linh của chính nó, chạm vào được linh tính của ngôn ngữ và vẻ đẹp cá tính của chính mình, thì nó đã chạm vào được thành bể của tản văn. Tiểu thuyết là thuộc về xã hội, tản văn là thuộc về chính mình. Nhưng những tiểu thuyết hiện nay đang cố gắng cá nhân hóa, còn tản văn thì dồn sức vào vô vàn hiện tượng mà gánh nặng không thể cáng đáng nổi. Về định nghĩa tản văn, có thể mỗi một người đều có một cách nói. Tôi nghĩ, dù nói thế nào đi nữa, nó cũng không ngoài một câu: tản văn là những câu chữ lột tả tâm hồn. Nếu nói đơn giản một chút, thì là: Tản văn là văn tự của tâm linh. Từ đó chúng ta phân biệt giữa tản văn với tùy bút, tức là: tản văn thì thuộc về tâm linh, tùy bút thì thuộc về trí óc. Tản văn bắt nguồn từ tâm linh, tùy bút thì đến từ sự suy nghĩ. Tản văn mang nhiều sắc thái tình cảm hơn, còn tùy bút thì chiếm phần lớn là suy xét biện luận.
HỎI: “Cơn sốt tản văn” đã thúc đẩy sự phát triển đa nguyên hóa cho tản văn. Đồng thời, sự đa nguyên hóa của tản văn, cũng khiến rất nhiều người viết, người đọc bị rối loạn trước câu hỏi “thế nào là tản văn hay?”. Xin ông cho biết, tiêu chuẩn để xác định một thiên tản văn hay là gì?
PKT: Thứ nhất, đó là tính phát hiện của đề tài; Thứ hai, đó là những chi tiết chưa có ai từng sử dụng; Thứ ba, ngôn ngữ sâu sắc, có những câu văn hay. Điều thứ nhất nói ở trên, thể hiện con mắt nhìn độc đáo của tác giả đối với cuộc sống. Điều thứ hai thể hiện sự mẫn cảm cũng như độ sâu sắc của tác giả trong việc quan sát cuộc sống. Còn điều thứ ba, thể hiện tài năng về văn học (ngôn ngữ) của tác giả.
HỎI: Trong những sáng tác gần đây, đặc tính thẩm mỹ của tản văn được thể hiện ở điểm nào? Nó thông qua con đường đặc biệt nào, để nắm bắt và thể hiện trải nghiệm phức tạp trong thời đại hiện nay của chúng ta? Làm thế nào để nó có thể trở thành một hình thức ngôn ngữ thực sự đối mặt với sự trải nghiệm của tự thân chúng ta, đối mặt với linh hồn của chính bản thân chúng ta? Loại hình thức ngôn ngữ ấy có gì khác biệt với tiểu thuyết, thơ ca?
PKT: Tiểu thuyết thì cần có những đoạn tản văn, nhưng tản văn thì không thể có những đoạn của tiểu thuyết. Thơ ca không thể dùng ngôn ngữ của tản văn, nhưng tản văn cần phải đột xuất có những câu chữ của thơ ca.
Người dẫn thuật trong tiểu thuyết thường thường là hư cấu, không phải là của bản thân tác giả, cho nên ngôn ngữ văn bản của tiểu thuyết thường là ngôn ngữ cá tính của người dẫn thuật hư cấu, không phải là ngôn ngữ của chính bản thân tác giả. Nhưng ngôn ngữ trong tản văn chỉ có thể là của chính tác giả của nó. Còn nữa, ngoài ngôn ngữ ra, xây dựng lên tiểu thuyết là tình tiết, còn xây dựng lên tản văn là những chi tiết. Cần phải nói rõ rằng, tản văn hoàn toàn không phải là xóa bỏ hư cấu. Nó không thể hư cấu nên sự kiện và nhân vật như là tiểu thuyết, nhưng nó có thể hư cấu bối cảnh và không khí. Hư cấu không phải là một sự giả tạo, mà là một sự sáng tạo. Hư cấu phục vụ cho sự cần thiết trong nội tâm của tác giả, đồng thời phục vụ cho sự cần thiết của thẩm mỹ.
HỎI: Tác giả tản văn nào có ảnh hưởng lớn nhất với ông? (không phân biệt trong và ngoài nước, và số lượng từ một đến ba người). Tác phẩm nào của họ mà ông thích nhất? Và vì sao ông thích nó?
PKT: Tác giả đầu tiên là Turghenev, với tác phẩm “Bút Ký Người Đi Săn” (bản dịch của Phong Tử Khải). Lý do là: cuộc sống mà chúng ta ghi nhớ, đều mang tính phiến đoạn, một tản văn hay thể hiện ở một số phiến đoạn hay. Tác phẩm “Bút Ký Người Đi Săn” có nhiều vô số những đoạn hay, những phiến đoạn về cuộc sống và phong cảnh đẹp đến mê hồn.
Tác giả thứ hai là Tô Thức, với tác phẩm “Tiền Xích Bích Phú”. Lý do là: Tràn đầy tính thơ và ý thơ. Trên thực tế, rất nhiều tác phẩm tản văn kiệt xuất Trung Quốc xưa đều mang đậm tính thơ và ý thơ. Xuất phát từ tính thơ và ý thơ đó, họ cảm thụ, thăng hoa, và biểu hiện cuộc sống. Tô Thức đã cho chúng ta biết, đem cuộc sống biến thành nghệ thuật không phải ở trong việc viết lách, mà nó bắt đầu ngay từ việc cảm thụ cuộc sống.
Tác giả thứ ba là Lỗ Tấn, với tác phẩm “Hoa Sớm Tàn Chiều”. Lý do là: ý cảnh nhân sinh thẩm mỹ hóa là một đặc tính văn học rất cao quý.
HỎI: Trong lịch sử phát triển văn học, có một hiện tượng rất lý thú, có một số tác giả, mang nhiều gương mặt khác nhau, vừa là nhà thơ, lại là nhà văn viết tiểu thuyết, lại kiêm sáng tác tản văn. Ông nhìn nhận hiện tượng sáng tác trên nhiều thể loại như thế này ra sao?
PKT: Một thể tài hay một hình thức chỉ thích hợp cho biểu hiện một cái gì đó. Khi biểu đạt một cái khác, thì phải sử dụng một hình thức và thể tài văn học khác. Thể loại văn chương không phải là một chướng ngại đối với một tác giả, nó chỉ giúp đỡ và hoàn thiện thêm cho tác giả biểu đạt chính mình được tốt hơn.
HỎI: Sáng tác tản văn hiện nay, đã đột phá tính đơn nhất của chủ đề, hướng tới sự phát triển đa chủ đề, thành một bản hòa tấu nhiều biến tấu. Ông có cho rằng, đó là phương hướng phát triển của sáng tác tản văn thế kỷ 21 không? Viễn cảnh của nó như thế nào?
PKT: Đúng vậy. Tản văn hiện nay đang đi đến tự do, nó có rất nhiều khả năng. Nhưng chúng ta không thể làm thế nào mà đặt ra một quy định cho tản văn, và dự đoán “xu hướng phát triển” của nó. Cái thực sự ảnh hưởng đến sự thay đổi dòng chảy của tản văn là sự cải biến của cuộc sống và sự biến thiên của lịch sử thời đại, và còn nữa, đó là sự chuyển biến về thẩm mỹ của độc giả. Nói đến viễn cảnh phát triển thịnh vượng của tản văn mà chúng ta mong đợi, tôi nghĩ, dựng lên một mảnh trời tạnh ráo đó là cái ô, dựng lên một quang cảnh lớn mạnh cho tản văn thì cần phải có sự xuất hiện của một số nhà tản văn lớn.
(Dịch giả và Nhà văn Phùng Ký Tài tại Viện VHNT Phùng Ký Tài 5/2019)

HỎI: Đây là một câu hỏi liên quan đến việc đọc sách. Có một hòn đảo lẻ loi giữa biển khơi, phong cảnh rất đẹp, mời ông đến đó nghỉ dưỡng nửa năm. Trên hòn đảo cách biệt đó, ông không phải lo đến chuyện ăn mặc, cuộc sống là đầy đủ. Nhưng rất đáng tiếc là, ở đó không có một ai khác qua lại giao lưu với ông. Để đảm bảo được hưởng cuộc sống tinh thần tự do, ông có thể đem theo một cuốn tản văn mà mình thích (chỉ một cuốn thôi). Ông sẽ mang theo cuốn sách gì?
PKT: Cuốn sách đó là: “Phù Sinh Lục Ký”
HỎI: Vì sao ông lại mang cuốn sách đó?
PKT: Vì cuốn đó có thể đọc đi đọc lại. Giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú, nó gợi lên cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau. Một câu một chữ đều có thể sửa chữa chau chuốt và gặm nhấm. Lịch sử văn học Trung Quốc, phải thành thục về thơ trước tiên, sau đó mới là tản văn. Tản văn chịu ảnh hưởng của thơ, rất sành sỏi về chuyện “chuốt chữ”, và cũng rất rành việc vận dụng một từ đơn. Sự tinh thâm của tản văn chữ Hán cũng là ở đó. Không giống như sáng tác tản văn hiện nay, cứ viết là viết miên man, đọc xong rồi chẳng lưu lại được gì cả.
HỎI: Trong các thiên tản văn mà ông đã hoàn thành, ông thích nhất là những tác phẩm nào (chỉ từ một đến ba thiên thôi.)? Vì sao?
PKT: Tác phẩm thứ nhất là: “Trân Châu Điểu” (Chim Ngọc Trai). Lý do là: Từ trong đó có thể nhìn ra được sự tìm kiếm của mình, tức là cảnh giới được coi là trên hết, bất kể là cảnh giới nhân sinh hay cảnh giới thẩm mỹ.
Tác phẩm thứ hai là: “Thư Trác” (Bàn Sách). Lý do là: rất nhiều phiến đoạn trong đó đều là của chính tôi. Trên phương diện có thể dùng văn tự thể hiện ra được nội tâm của mình hay không, đó là một tiêu chuẩn để tôi đoán định sự thành bại trong tản văn của mình.
Tác phẩm thứ ba là: “Trí Đại Hải” (Gửi biển lớn). Lý do là: Tôi rất ít đọc tản văn của mình, nhưng thiên tản văn này không biết tôi đã đọc nó bao nhiêu lần. Cảm giác của tôi mỗi lần đọc nó đều giống như được đến trước mặt Băng Tâm bằng xương bằng thịt vậy.
Tác phẩm thứ tư là: “Quý Mùi Thủ Ký” (Ghi chép năm Quý Mùi). Lý do là: Để viết ra những cảm nhận, thể nghiệm và suy nghĩ phức tạp của tôi trong công tác điền dã và điều tra về văn hóa, tôi từng thử đem tản văn, tùy bút, và những văn bản nghiên cứu mang tính học thuật dung hòa với nhau làm một. Tôi cảm thấy thể văn đó vừa giúp được cho sử dụng của mình, mà viết ra cũng đắc tâm ứng thủ. Tất nhiên, cái đó chỉ thích hợp khi tôi viết những nội dung như vậy thôi./.
(Châu Hải Đường dịch
Theo tập “Tán Hoa” của Phùng Ký Tài,
Hoa Sơn Văn Nghệ xuất bản tháng 5/2009)

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2019

TRƯƠNG TRẠC VÀ TRUYỆN TRUYỀN KỲ “DU TIÊN QUẬT”


Trương Trc 張鷟 (658 730), t Văn Thành 文成, hiu Phù Hưu T 浮休子, người Lc Trch, Thâm Châu (nay là huyn Thâm tnh Hà Bc) đi Đường. Trương Trc t nh đã ni tiếng thông minh dĩnh ng, gii bin văn, đu tiến sĩ đu niên hiu Điu L, được trao chc Tham quân ph Kỳ Vương, sau điu làm Trường An úy, đi Hng Lô tha. Do tính tình phóng túng, hành đng tùy tin, nên b t tướng Diêu Sùng không coi trng. Đến đu niên hiu Khai Nguyên, Trương Trc b Ng s Lý Toàn Giao đàn hc, phi thiên đến Lĩnh Biu (nay thuc Qung Đông), ông mt khi gi chc Tư môn Viên ngoi lang. (Truyn v Trương Trc có ph chép trong truyn Trương Tiến – là cháu ca ông – trong “Tân Đường Thư).
Văn chương ca Trương Trc tình t dim l, được khen là: Văn chương ca Trc chng khác gì tin đng, vì thế ông được đương thi đt nhã hiu là Thanh Tin hc sĩ” . Tác phm ca ông có: Triu Dã Kim Ti, truyn truyn k Du Tiên Qut Vì yêu mến văn chương ca ông, nên s gi các nước, mi khi đến Trong Hoa đu tr giá cao đ mua v, trong s đó truyn truyn k Du Tiên Qut đã theo s gi Nht Bn mà lưu truyn đến nước này, và t đó thành tht truyn hàng ngàn năm Trung Quc. Đến cui đi Thanh, Dân Quc, người Hoa mi được biết đến tác phm này ca ông. (Chính vì vy mà Vit Nam trước đây, các tác gi c cn đi càng chưa tng biết, chưa tng nói đến Du Tiên Qut)
(Hình minh họa trong cuốn Du Tiên Quật khắc in ở Nhật Bản năm Canh Ngọ,
1690, niên hiệu Nguyên Lộc (Genroku) thứ 3)
Truyn truyn k Du Tiên Qut ca Trương Trc là mt câu chuyn tình có th xut phát t mt bi cnh lãng mn có tht, mà tác gi t xưng mình ngôi th nht đ viết. Tiên là mt đi t ch nhng người con gái đp mà văn nhân đi Đường thường dùng, ch không hn là ch mt nhân vt hư cu. Trong truyn ký ca người đi Đường cũng có mt lượng ln tác phm viết v ch đ tình yêu, nhưng ch có Trương Trc trong Du Tiên Qut dám viết thng v mình như mt nhân vt nam chính trong tiu thuyết, k v cuc gp g k ng ca mình, du các tình tiết ca cuc dim ng y đã tri qua nhng hư cu ngh thut. Trong s các tác phm đi Đường, ch có duy nht Du Tiên Qut dám miêu t sinh hot nam n mt cách sinh đng đy đ âm thanh màu sc mà thôi, cho nên tt nhiên nó đã khiến nhng k phàm phu tc t phi kinh mt ghê tai, cho tác gi là k khinh bc, phóng đãng tùy tin. Nhưng điu đó cũng cho thy tinh thn gii phóng, không b bó buc bi l giáo đi thường ca tác gi.

Câu chuyn k v cuc tình mt đêm ca nhân vt nam chính (tc chính là Trương Trc), cũng là bóng dáng ca mt mt trong cuc sng phong lưu ca tng lp thanh niên sĩ đi phu xut thân khoa c đi Đường, và cũng phn ánh trào lưu yêu đương ngoài hôn nhân ca nhng nhân vt trung thượng tng lúc by gi. Kiu tình yêu ngoài hôn nhân như vy chưa tng thy nhc ti trong văn hc t s t đi Đường v trước, có nghĩa là: Trương Trc là người đu tiên viết v đ tài này. Vi các tác phm truyn k cũng như nhng tiu thuyết t đi Tng v sau viết v tình yêu ngoài hôn nhân, có th nói Du Tiên Qut chính là tác phm m đường.

V hình thc ngh thut, đúng như li khen v tài viết văn bin ngu t nh, Du Tiên Qut đã được Trương Trc viết hoàn toàn bng li văn bin ngu t đu đến cui, kết hp vi đó là lượng ln văn vn và thơ ca: bao gm nhng đon miêu t bng văn vn, và nhng bài thơ đi đáp, thù tng thay cho li thoi bình thường ca ba nhân vt chính (Nhân vt tôi Trương Trc, Thp Nương, Ngũ Tu) và c mt s nhân vt ph. T đon đu tiên trong tác phm đã thy nhng câu bin ngu thành thc:

“Ta từ Khiên, Lũng, phụng sứ Hà Nguyên, than số phận phải truân chuyên, ngóng quê hương đà tít tắp. Trương Khiên dấu cũ, mười vạn dặm sóng cồn; Bá Vũ vết xưa, hai ngàn năm vách dựng. Hang sâu thấu đất, đào xuyên vách núi chon von; Núi vút ngang trời, gọt vát đỉnh non hoăn hoắt. Khói mây mờ mịt, đá suối phân minh. Thực tài linh dị hóa công, nên vẻ tuyệt vời nhân thế. Mắt chưa từng thấy, tai chửa từng nghe.
Chiều tối đường xa, ngựa chồn người mỏi. Đi đến một chỗ, hiểm trở vô cùng: Nhìn lên thì có núi biếc muôn tầm, ngó xuống thì có đầm xanh ngàn trượng. Các bậc cố lão tương truyền rằng: “Đó là động thần tiên vậy. Dấu người ít đến, đường ngựa mới thông. Thường vẫn thấy quả thơm cành ngọc, bát gậy áo tiên, tự nhiên hiện ra, không biết từ đâu mà đến.” Ta bèn một lòng nghiêm trang ngưỡng vọng, trai giới ba ngày, men dây sắn nhỏ, chống chiếc thuyền con, thân thể như bay, tinh thần tựa mộng. Chỉ trong khoảnh khắc, bỗng tới vách núi tùng bách, khe suối hoa đào, sắc sáng khắp trời, gió thơm ngập đất …”

Hay như mt đon trong bc thư ca nhân vt nam chính (Trương Trc) gi cho Thp Nương:
“Tôi từ tuổi trẻ đã ưa thanh sắc, sớm thích hẹn hò, thăm trải phong lưu, chơi khắp thiên hạ. Gảy đàn hạc ở quận Thục, hiểu rõ Văn Quân; Thổi sáo phượng trên lầu Tần, quen nhìn Lộng Ngọc. Tuy nhiên, tặng lan trao ngọc, chẳng quá lưu tâm; hợp cẩn đặt bày, nào từng thích ý. Thuở trước ngủ đôi, hằng hiềm đêm ngắn; Tối nay nằm một, thực oán canh dài. Chỉ một ông trời, mà hai thời vận. Xa nghe hương thoảng, tấm lòng Hàn Thọ đớn đau; Gần lắng tiếng đàn, nét mặt Văn Quân tơ tưởng…”

Nếu tính c các bài văn vn dùng như li miêu t tình cnh trong truyn, và các bài thơ ngn dài khác, thì Du Tiên Qut có ti ngót 80 bài thơ. Ví như đon dưới đây là mt đon văn vn miêu t quang cnh:

“Bèn dẫn ta đến buồng ngủ của thập nương. Chỉ thấy:
Bình phong họa chướng năm mười bức;
Hai chái màn, bốn góc túi hương.
Trầu cau, đậu khấu, trầm xông;
Sẵn giường gối lụa, chất rương áo màu.
Theo vào buồng, làu làu gấm vóc;
Đài gương sen, dát ngọc guốc vàng.
Bên rèm, rắn bạc điểm trang;
Con sư tử ngọc đầu giường bầy chơi.
Thảm cùng cự để mười lớp ấm;
Chăn uyên ương xếp tám lượt êm.
Áo quần đẹp lạ sẵn bên;
Trời sinh tư chất, tính bền phong lưu…”

Hay, như mt đon đi đáp bng thơ ca các nhân vt:

“Ta đáp: “Đã phụng ân mệnh, đâu dám chối từ.” Đúng lúc bấy giờ, ta ngỡ như ngừng thở, bất giác đưa mắt, thi thoảng lại nhìn trộm thập nương. Thập nương nói: “Thiếu phủ đừng nhìn thiếp.”
Ngũ tẩu nói: “Lại ghẹo nhau!”
Ta liền vịnh rằng:
Hốt nhiên lòng thấy mến;
Bất giác mắt liền thương.
Tội chi hai mắt liếc;
Vốn bởi tấc lòng vương.

Thập nương vịnh rằng:
Mắt, lòng đâu một chỗ;
Lòng, mắt vốn chia hai.
Dù cho người mắt thấy;
Ai khiến bảo lòng hay.

Ta vịnh rằng:
Xưa nay lòng khiến mắt;
Lòng nhớ mắt liền vương.
Vì lòng xui mắt thấy;
Mắt với lòng cùng thương.

Thập nương vịnh rằng:
Mắt, lòng cùng quyến luyến;
Lòng, mắt thảy tơ vương.
Mắt ai hiểu việc thế;
Giúp tấc lòng đáng thương.(...)”

Mt đim đc sc trong truyn đó là nhng miêu t khêu gi yêu đương và tính dc trong truyn. Các nhân vt thường dùng phương thc miêu t s vt đ gi gm ý t, thm chí khêu gi v tình dc, mà nếu đem so sánh, có th nói gn tương t như mt s bài thơ Nôm ca n sĩ H Xuân Hương ca chúng ta sau này. Ví như bài thơ vnh cái bàn i v:
Xưa nay lòng dạ nóng;
Vô cớ ép đè người.
Đến nay hình thế lạnh;
Ai chịu lại mài dồi.”

Hay bài thơ vnh nghiên bút:
“Quệt lông tùy thuận tiện;
Mến sắc lại mài mau.
Chà miết lâu khôn dứt;
Vì chưng bởi nước nhiều.”
Có th nói nhng câu n ý như vy rt nhiu.

Và đây là mt đon văn miêu t cnh sex trong truyn:
Thập nương bèn gọi Quế Tâm, lại kêu Thược Dược, cùng tháo giày, cởi áo bào, gỡ khăn đầu, treo đai gấm cho thiếu phủ. Rồi lại giúp thập nương trải chăn lụa, cởi váy là, bỏ áo hồng, trút tất lục. Mặt hoa mắt ngắm, hương ngát mũi nghe, lòng xốn xang khó giữ, tình ngây ngất khôn cầm. Đưa tay vào dưới quần hồng, ngoắc chân ở trong chăn biếc. Hai môi đối miệng, một tay gối đầu. Sờ nắn khuôn ngực trước, rờ rẫm vế đùi trên. Một cắn một khoái ý, mỗi ghì mỗi rộn lòng, sống mũi đau tê, trong tim nghẹn nhói. Hồi lâu mắt hoa tai nóng, gân giãn mạch căng. Mới biết, khó gặp khó tìm, đáng trân đáng quý. Chỉ trong khoảnh khắc, mà mấy hồi giao tiếp. Ai hay, chim thước đáng ghét, nửa đêm động người; gà trống xấu xa, canh ba gáy sáng. Bèn cùng khoác áo ngồi dậy, rơi lệ nhìn nhau.
(Đường Tống Truyền Kỳ của Lỗ Tấn, Châu Hải Đường dịch,
Tao Đàn & NXB Hội Nhà Văn xuất bản 2017)
Trong li ta tp “Đường Tng Truyn Kỳ” viết năm 1927 ca L Tn, ông có cho biết rng: “Ở Nhật Bản có lưu truyền truyện “Du tiên quật” là tác phẩm của Trương Văn Thành đời Đường, vốn được tôi đặt sau truyện “Vượn trắng”, nhưng vì ông Chương Mâu Trần[1]sắp sửa xuất bản riêng truyện ấy, nên tôi không chép vào đây nữa.”
Vì vy cho đến nay, tp “Đường Tng Truyn Kỳ” ca L Tn khi in Trung Quc vn gi nguyên như nhng truyn ca L Tn đã hiệu lục khi y, mà không có truyn Du Tiên Qut này. Tuy nhiên, trong bn dch “Đường Tng Truyn Kỳ” ca Châu Hi Đường do Tao Đàn và NXB Hi Nhà Văn in năm 2017, dch gi đã dch b sung đy đ truyn Du Tiên Qut ca Trương Trc (Trương Văn Thành) và đ vào trong phn Ph Lc ca cun sách, hoàn thành chí nguyn y ca L Tn.

29/9/2019
CHĐ

[1]Chương Mâu Trn: tên tht là Chương Đình Khiêm, bút danh Xuyên Đo, người Thiu Hưng, Triết Giang, tt nghip khoa Triết đi hc Bc Kinh, khi y ging dy Đi hc H Môn.