“Dạ Đàm Tùy Lục” của Hòa bang Ngạch
được khắc in lần đầu vào năm Kỷ Hợi niên hiệu Càn Long (1779), có lẽ vì thế
chăng, mà dù đã được dịch và biên tập xong từ lâu, nhưng phải đến Tết năm Kỷ Hợi
2019 được “vấn thế” một cách tòa diện (toàn bản). Một điểm trùng hợp ngẫu nhiên
nữa là, truyện đầu tiên của tác phẩm – truyện “Thôi Tú Tài” cũng lại là một
truyện mà trường đoạn chủ yếu nhất của nó là viết về tình cảnh của một kẻ hàn
nho trong những ngày giáp Tết. Và câu chuyện có thể nói là một trong những minh
chứng cho chủ trương của tác phẩm, mà như trong lời giới thiệu đầu cuốn sách đã
nói, khi so sánh nó với “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh, rằng:
“Nếu đem so sánh, giữa “Liêu Trai Chí
Dị” và “Dạ Đàm Tùy Lục”, thì cả hai tuy cùng là những chuyện truyền kỳ chí quái
nói về ma quỷ hồ ly, nhưng xét về mặt phản ánh cuộc sống, phê phán hiện thực
thì mỗi tác phẩm lại có một đặc sắc khác nhau. Trong “Dạ Đàm Tùy Lục”, việc vạch
trần và phê phán những mặt xấu xa của hiện thực thường cao hơn hẳn việc miêu tả
và hướng đến một thế giới lý tưởng đẹp đẽ ảo tưởng. Do vậy, nếu như nói “Liêu
Trai Chí Dị” phần nhiều là thể hiện một vẻ đẹp lý tưởng của chủ nghĩa ly kỳ
lãng mạn, thì “Dạ Đàm Tùy Lục” lại bộc lộ nhiều hơn một không khí hung bạo của
chủ nghĩa hiện thực thô sơ.”
Mời các bạn thưởng thức một đoạn
trong truyện “Thôi Tú Tài” – truyện đầu tiên của tác phẩm “Dạ Đàm Tùy Lục”, để
có thể thấy phần nào ngòi bút châm biếm hiện thực sâu cay của Hòa Bang Ngạch.
"Bậc tiên hiền ở phủ Phụng Thiên là Lưu công, từ khi chưa hiển
đạt, vốn vẫn là con nhà thế gia. Khi còn tuổi trẻ, tính phóng khoáng hiếu
khách, tiêu pha không bao giờ bủn xỉn, xe ngựa dập dìu, trước nhà lúc nào cũng
đông như chợ, người qua lại ai cũng phải ngưỡng mộ, dù là Mạnh Thường quân nước
Tề, Bình Nguyên quân nước Triệu cũng không hơn được.
Bỗng nhà Lưu gặp liền mấy biến cố lớn, của cải mất gần hết. Lại
ba năm nữa, thì nghèo đến không còn gì. Lại đi thi mấy bận không đỗ, thân cố ai
nấy đều coi thường, đem chuyện được mất lỗi lầm của Lưu làm kể truyền miệng lẫn
nhau, dần dần đến độ không gặp gỡ hỏi thăm nữa. Nô bộc trong nhà Lưu cũng bỏ
đi, luôn luôn có kẻ cố ý phạm lỗi để mong bị đuổi, cuối cùng chỉ còn lại một
người lão bộc. Trong nhà Lưu cũng chỉ có một vợ, một con trai, một con gái mà
thôi.
Gặp dịp tháng Chạp sắp hết, mà nhà Lưu chỉ có áo trâu, vại rỗng, không có gì để đón năm mới. Người con gái giỏi làm thơ, đùa ngâm rằng:
Một hôm có vị khách là Thôi Nguyên Tố đến đưa danh thiếp, Lưu
tiếp kiến, hỏi đến gia thế, bản quán, Thôi đáp: “Tôi là tú tài ở Lâm Cù, Sơn
Đông, lên kinh đô đã hai mươi năm rồi. Nghe nói ngài vốn hiếu khách, nên đến
làm thực khách vậy.” Lưu mừng lắm, hai bên cùng qua lại với nhau, thỉnh thoảng
lại chu cấp cho tiền gạo. Thôi cứ độ mươi ngày lại đến, đến lần nào cũng vay mượn,
người nhà đều ghét là kẻ nghèo hèn, riêng Lưu không lấy làm phiền, lần nào cũng
cho được như ý, chưa từng trái bao giờ. Cứ như vậy đã hơn hai năm.
Gặp dịp tháng Chạp sắp hết, mà nhà Lưu chỉ có áo trâu, vại rỗng, không có gì để đón năm mới. Người con gái giỏi làm thơ, đùa ngâm rằng:
Chết buồn mưa tuyết mấy hôm liền;
Bông vón xui ai khắp chốn tìm.
Tết đến mà như Hàn Thực
tiết;
Trong bếp vì chưng cũng
cấm yên.
Lưu thấy thế cười bảo: “Bây giờ hai vai lạnh sởn da gà, nếu
có thể đem nấu mà ăn, thì cũng được bữa no. Giờ nghe thơ con, thật khiến ta thấy
hổ thẹn.” Nhân lại họa rằng:
Năm nay năm trước khoảng trời liền;
Trước áo cừu nay bông rách tìm.
Nhắn bảo đông quân đừng báo tết;
Xuân sang sức cạn bếp đành yên!
Vợ giận lừơm bảo: “Bạn bè quý hóa ngày xưa, cần gì là đáp ứng
ngay, những kẻ đến ăn không đâu phải chỉ có một người. Nay năm hết tết đến, đến
cái ăn cũng không có, còn không nghĩ tính toán cách nào, lại còn dở dói họa thơ
với con, chắc là ngồi đợi chết đói, mà làm sẵn bài phúng điếu đấy hẳn?” Lưu
nói: “Vậy muốn ta đi ăn trộm hay sao?” Vợ nói: “Ăn trộm cũng được! Chỉ sợ ông
cũng chẳng có cái tài ấy đâu! Nhà Chu tri huyện ở ngoài cửa Thuận Thành, khi
còn hoạn nạn, ông ta vốn cũng là chỗ tri giao với ông, một ngày không gặp là
không chịu nổi. Nghe nói hiện nay ông ấy vì có tang mà đang ở nhà, bổng lộc
sung túc, sao ông không viết thư cho ông ấy, nhờ ông ấy giúp cho trong lúc cấp
bách này?” Lưu nói: “Nếu bà không nói,
thì tôi cũng quên mất.” Liền viết thư, sai lão bộc đưa đi.
Sẩm tối, ngưỡi lão bộc trở về tay không, vừa vào cửa liền chửi
ngay: “Đúng là đồ táng tận lương tâm, không nên quen biết với hắn ta nữa! Mới đầu,
người giữ cửa chối rằng hắn đi ra ngoài không ở nhà, tôi đã không tin. Đến khi
hắn ra cửa tiễn khách, tôi gặp được rồi. Hắn trâng trâng hai mắt, cầm thư trở
vào. Tôi giục giã mấy lần, mới truyền lời ra rằng bận việc, không rảnh rỗi để
viết thư phúc đáp được. Chỉ có thể nhờ nói lại giùm với ông rằng ông ta hiện giờ
trăm việc cần chi dùng, trong túi không có một đồng, đang còn lo không biết mượn
đâu ra, thực sự không giúp được như lời ông … Kẻ táng tâm như vậy, nếu còn quen
biết, chẳng phải hỏng hết danh tiết ư!” Lưu đã mong mỏi một ngày trời, tưởng rằng
được như ý, nay nghe như thế, không ngăn được buồn rầu.
Vợ đay nghiến bảo: “Bạn tri giao chẳng nhờ cậy được rồi. Còn
bạn thân từ thuở ấu thơ, đâu phải là quen biết sơ sài. Ông Dương ở phía bắc
thành, chẳng phải là bạn thân từ thơ ấu của ông ư?” Lưu lấy làm phải, lại viết
thư gửi tới. Dương từ chối rằng buôn bán thất bát, thua lỗ cả tiền vốn, không
có tiền giúp. Lưu vỗ đùi than rằng: “Loại bạn bè đầu môi chót lưỡi ấy, vốn chẳng
lạ gì. Muốn có người hiểu mà giúp tiền bạc, chẳng thể không nhờ những bạn đạo
nghĩa.” Bèn khêu đèn viết thư, nói hết tâm can, hôm sau giao cho lão bộc đưa đến
Cận công tử ở phía nam thành.
Cận công tử là hậu duệ nhà sĩ hoạn quý tộc, ruộng vườn khắp
quanh kinh thành. Công tử với Lưu vốn là thế giao, vô cùng thân thiết, mỗi khi
hội ngộ cùng nhau, đều tối ngày sáng đêm, bàn toàn những khí tiết trung nghĩa, đạo
lớn ở đời, cùng khích lệ chỉ bảo lẫn nhau, tình nghĩa không khác huynh đệ một
nhà, có thể nói là đã đứng vững chân, không theo thói tục, một lòng học theo hiền
nhân đời xưa. Cận công tử xem thư xong, lập tức phúc đáp, nói: “Thẹn rằng tri kỷ
thì đáng phải lập tức tuân mệnh. Nhưng tiếc rằng tâm có thừa mà lực không đủ,
đành thúc thủ vô sách. Ngài chỉ cần gắng sức noi theo chí hướng, chớ nên trễ nải
bỏ bê, thì có lo gì nghèo khó! Vả chăng trời sinh ra Lưu quân, tất chẳng để cho
khó nhọc, ngài hãy cứ đợi chờ, nhất định sẽ có ngày đại phú quý vậy. Chỉ có điều,
một kẻ hiếu nghĩa như đệ, gặp khi nguy cấp thế này, mà lại ngồi nhìn bạn tốt gặp
khốn, không thể đưa tay ra cứu giúp, thực đáng hổ thẹn, riêng mong người tri kỷ
lượng thứ cho vậy!” Lưu phẫn uất, ném thư xuống đất nói: “Hơ hơ! Thường ngày
móc gan ruột, nói đạo đức, nào là Dương, Tả, Nhậm, Lê! Mỗi khi ông ta sinh con
trai con gái, ta từng đem trăm lạng vàng đến mừng. Nay khi ta cấp bách cần tiền,
lại không chịu bỏ ra một đồng, còn đem những lời viển vông ra khuyên bảo. Gọi
là bạn đạo nghĩa, là như thế này sao?”
Lão bộc khuyên bảo: “Bạn bè của chủ nhân, đại để chẳng có một
ai thực sự là kẻ tri tâm đâu. Trong số họ hàng thân thích của ông cũng chẳng
thiếu nhà phú quý. Sao không chịu khó mất mặt một chút, liên hệ với họ xem có
cách nào không?” Lưu công buồn bã than bảo: “Bằng hữu là một trong năm đạo luân
thường, mà còn gọi ba bận chẳng thưa, họ hàng thân thích sơ sơ, thì có hy vọng
gì?”
Trong lúc chuyện trò, chợt nghe có tiếng gõ cửa, báo rằng
Thôi tú tài đến. Vợ bảo: “Hừ! Người ta đã khốn khó cùng khổ đến bước này rồi,
ông ta còn đến đẽo thịt kẻ trơ xương ư? Bây giờ đến khúc xương khô cũng chả còn
nữa, vẫn còn đến vạc, e là chả có chỗ mà hạ dao đâu.” …”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét