Nghe nói anh Khang đã về rồi, đang ở nhà người anh trai, hình như bị ốm nặng lắm. Đã hẹn nhau đi thăm anh ấy, nhưng vì bận quá, mà đường lại xa, hơn nữa lại đông người, nên cuối cùng cũng không thể tụ tập đủ và hẹn ngày cụ thể được, thế là dây dưa mãi đến hôm nay đã gần một tháng rồi, mà vẫn còn chưa đi thăm được. Hơn nữa, cũng không nghe thấy có tin tức gì mới, thành thử dần dà mọi người cũng quên khuấy cả đi.
Xa nhau
tròn hai chục năm, gần như là nửa đời người rồi còn gì. Cuộc sống bận rộn mà lại
lắm biến cố, thực sự là không có mấy khi rảnh rỗi an nhàn để nhìn lại, đến khi
bất chợt ngoảnh đầu, thì chẳng khác gì chỉ trong khoảnh khắc búng ngón tay mà
đã đi xa mười vạn tám ngàn dặm vậy. Những chuyện ngày xưa, nghĩ lại tuy còn rõ
ràng, mà rốt vẫn mờ mịt như từ kiếp trước, giống như một giấc mơ chẳng phải là
thực.
Thuở học
cùng với anh Khang, chúng tôi mới độ hơn hai mươi tuổi một chút, ai cũng có
hùng tâm tráng chí bể rộng sông dài cả. Chí nguyện của anh Khang là viết một bộ
sách về Lịch sử âm nhạc Trung Quốc, đó là một tâm nguyện không nhỏ cũng không lớn,
nhưng thực tế lại muôn phần khó khăn. Anh ấy vốn có biệt danh là “kho tư liệu sống”,
hồi học năm thứ hai đã tích lũy được số phích thư viện đầy một thùng đựng xà
phòng. Anh luôn nói rằng, Trung Quốc là quốc gia viết sử sớm nhất, và lập chí
phát huy truyền thống đó. Nhưng chỉ thấy anh ấy khổ công tìm kiếm thu thập tư
liệu, mà rất lâu vẫn không đặt bút viết. Đừng nói là sách, đến một bài viết
ngăn ngắn để có thể đăng trên tập san của trường cũng không thấy có, khiến ai
cũng thất vọng. Trong khi ấy, đã có người hùng tâm hăng hái, viết xong được bản
đại hợp xướng “Dòng sông hạnh phúc” hùng vĩ, giành được huy chương hạng nhất về
Đại hợp xướng trong của Liên hoan Thanh niên Quốc tế lần thứ 7 rồi. Hỏi anh,
thì anh liền nói: “Để thời gian nữa, để thời gian nữa!”. Tận đến khi phải đội
lên đầu cái mũ Phái Hữu trong cuộc đấu tranh chống hữu khuynh, bị đày tới Thanh
Hải, cũng chưa thấy anh viết ra được nửa câu một chữ nào. Tôi với anh, tuy
không có khúc mắc gì, nhưng cũng không phải là thân thiết. Vì là một con mọt
sách, nên anh ấy trước giờ rất ít bạn bè thân mật. Tuy là “mọt sách”, nhưng anh
cũng rất bình thường, không có nhiều chuyện buồn cười, cũng không gây ra việc
ngu ngốc gì mà những kẻ đọc sách đọc đến mụ đầu hay làm. Cho nên, khi nhớ về
anh, nó rất mờ nhạt và không có mấy điều xúc động. Chỉ là thấy anh nhanh chóng
bị cho là phái hữu mà trong lòng cảm thấy có chút tiếc nuối. Song, tội trạng của
anh ấy cũng chỉ là mấy câu bình luận hơi tỏ ra bất mãn với hiện thực mà thôi, nếu
so với nhóm của ba người công
nhiên đưa ra những ý kiến khác với Tiển Tinh Hải[1],
thì còn thiếu sự mạnh mẽ oanh liệt, vì vậy, rốt cuộc cũng không lưu lại ấn tượng
sâu sắc gì. Về sau, ngày càng có nhiều người vô tội, mà dường như đều gặp phải
những bất hạnh bi thảm hơn, vì vậy chút tiếc nuối ấy cũng mờ nhạt đi.
Nhưng rốt
cùng, đã từng là bạn học với nhau, sau hai mươi năm đến bây giờ, thì ý vị của
hai từ “bạn học” đã không còn chỉ là “bạn học” nữa, mà tựa hồ còn bao gồm cả những
ký ức về những năm tháng đẹp đẽ hai mươi năm trước. Cho nên, cái tâm tình muốn
đến thăm anh là hoàn toàn thành thực.
Hôm ấy, có
việc ở gần nhà anh trai Khang, nên sau khi xong việc, tôi bèn đến thăm anh.
Quê anh
Khang vốn không phải ở Thượng Hải, nhà ở Trấn Giang là anh cả anh ấy đưa anh ấy
ra ở để đi học. Vì vậy mỗi cuối tuần, anh ấy lại đến nhà anh trai mình chơi.
Khi ấy, anh cả anh ấy đứng đầu nhóm vĩ cầm của dàn nhạc, bây giờ đã nghỉ hưu,
lúc thì viết mấy bản nhạc, cũng có lúc viết văn chương. Khi hội họp hay liên
hoan cũng có lúc trông thấy, thấy thì đều gật đầu chào, nên cũng không xa lạ
gì, tôi cũng biết chỗ nhà ông ấy mới chuyển đến.
Nhà ông ấy
trên tầng 12 của một tòa nhà mới được xây dựng, đi thang máy lên. Ra khỏi thang
máy rẽ sang tay trái thì là căn hộ đầu tiên chính là nhà ông ấy. Trên cửa có
chuông điện, nhấn chuông, không có ai đáp lời. Lại nhấn lần nữa, còn chưa nhấn
xong, thì cửa đã lặng lẽ mở ra. Một người đàn bà quê mùa chừng hơn sáu mươi
nhìn tôi vẻ dò hỏi, có lẽ là người giúp việc nhà ông ấy. Giọng Thượng Hải của
bà ta còn nặng khẩu âm vùng Tô Bắc.
“Nhà bác ấy
đi vắng cả rồi.”
“Đi vắng cả
rồi ạ?” – Tôi vô cùng thất vọng, bởi quãng đường đi chẳng gần chút nào, mà cơ hội
để qua lại thế này cũng không lấy đâu ra nhiều.
“Chỉ có một
người đang ốm.” Bà ấy lại nói.
“Tôi chính
đang muốn thăm người bị ốm ấy đây.” – Tôi vội vàng nói, cảm thấy mừng rỡ vô
cùng, rốt cuộc đã không uổng công mình đi.
“Thăm người
ốm?” – Bà ta nhìn tôi vẻ vô cùng nghi hoặc, sau đó mới né người, để tôi bước
vào.
Tôi bước
vào trong, đó là một căn hộ chung cư nho nhỏ mới xây dựng, trước khi chuyển vào
ở, chủ nhà đã tự sửa chữa lại, dán giấy dán tường, lát sàn, nhà tắm đã ốp lát gạch
men và tranh khảm, lắp đèn chùm, treo mấy bức tranh sơn dầu, xem ra cũng khá
sang trọng. Tôi nhìn ngó hết bên trái lại bên phải, đi qua lối đi hẹp và ngắn,
căn buồng quay hướng nam cửa đã khóa, còn căn buồng quay hướng bắc thì đang mở,
bên chiếc bàn vuông có một người đang ngồi, gục xuống mặt bàn ngủ gật. Khả năng
chính là anh Khang rồi.
“Anh
Khang!” – Tôi gọi.
Không có
tiếng trả lời, anh ấy vẫn ngủ gật.
Tôi lại gọi
một tiếng nữa.
Vẫn không
có động tĩnh gì, hình như có gì đó không ổn, tôi lấy làm nghi hoặc, quay đầu lại
nhìn xem, thì bà già giúp việc đã đứng sau lưng, hai tay khoanh tròn lại đè lên
cạp váy, đứng nhìn rất ra vẻ.
“Đây là
anh em của ông chủ nhà phải không?” – Tôi hỏi bà ta.
“Chú quen
biết với chú ấy?” – Bà ta hỏi lại tôi.
Tôi gật đầu.
Bà ta bèn
nói: “Chú cứ gọi thử xem thế nào.”, rồi đi khỏi. Từ trong nhà vệ sinh vọng lại
tiếng giật nước.
Tôi lại gọi,
nhưng anh ấy vẫn không đáp lời. Trong lòng thấy vô cùng kỳ lạ và bất an, tôi chầm
chậm đi vòng qua bên cạnh anh ấy, thì phát hiện ra anh ấy không hề ngủ, mà chỉ
cúi đầu, một tay đỡ lấy đầu, còn một tay cứng đờ đang vạch gì đó trên mặt bàn.
Nhưng đó là một người hoàn toàn lạ mặt, gầy kinh dị, mà trước nay tôi chưa từng
trông thấy một dáng vẻ nào gầy gò đến như thế, tựa hồ chưa từng có mặt mũi, mà
chỉ là một bộ xương trán, xương gò má, xương hàm, bọc một lớp da gần như thấu
sáng. Bất giác tôi thấy hơi run.
“Có phải
anh Khang không?” – Tôi hỏi ông ta.
Ông ta
không hề nhìn tôi, tựa như không nghe thấy gì cả, ngón tay vẫn vạch vạch cái gì
đó trên bàn.
Tôi đi lại
gần, đỡ lấy vai ông ta, để mặt ông ta đối thẳng trước mắt mình, khi ấy ông ta mới
nhìn vào tôi, nhưng biểu hiện rất mơ hồ.
“Anh có nhận
ra tôi không?” – Tôi hỏi ông ta.
Ông ta
không có biểu hiện gì, trên khuôn mặt không có chút cơ thịt gì để có thể giúp
ông ấy biểu lộ cảm giác được, nhưng ông ta thực sự không có biểu lộ gì.
Tôi buông
vai ông ta ra, ông ta lại phục xuống mặt bàn như cũ, tay vạch vạch cái gì đó. Cứ
nhìn theo như nét viết, thì giống như ông ta đang viết một chữ “Gạo”.
Tôi hơi
run lên, chầm chậm lui khỏi căn buồng. Bà giúp việc đang giặt quần áo trong nhà
tắm, thấy tôi đi ra, bèn hỏi:
“Có nhận
ra chú không?”
Tôi lắc đầu.
“Từ Thanh
Hải về chú ấy đã như thế rồi. Nhưng, ăn cơm, đi ngủ vẫn còn biết, đại tiểu tiện
cũng biết. Nhưng cũng không thể nói là biết được, phải có người chỉ dẫn cho chú
ấy, thì chú ấy sẽ làm được, không hề rối loạn bao giờ.” Bà ấy có vẻ khá hài
lòng.
“Bà có biết
anh ấy bị làm sao không?” – Tôi vừa hỏi, vừa đưa tay sờ lên trên trán, thấy mồ
hôi đã rịn ra dâm dấp.
“Nghe nói
là bị vỡ mạch máu não, mà vỡ cũng vỡ đến lạ, không hề bị ngã, cũng không va đập
vào cái gì, đang ngủ ngon lành thế là bị vỡ.”
“Thế chắc
là bị xuất huyết não rồi.”
“Cũng là
cái số, vốn đã sắp được về Thượng Hải rồi, hộ khẩu, công tác, nghe nói đều đã làm
xong cả rồi, cuối cùng lại bị vỡ mạch máu não, hóa ra bộ dạng thế này.” Bà ta cần
mẫn vò quần áo, bọt xà phòng trắng xóa như tuyết tràn ra khắp xung quanh.
“Bà được
thuê để chăm nom cho anh ấy đấy à?” Tôi
hỏi.
“Tôi trông
chú ấy cũng đáng thương nên mới đến đây, chứ tôi vốn đang làm bên tòa nhà Long
Phi tốt lắm. Một nhà bốn người, hai người lớn, hai đứa trẻ, đứa lớn đang học đại
học, thứ bảy mới về, nên tự do nhàn nhã lắm. Thực sự là tôi thấy chú ấy đáng
thương nên mới sang đây.” Bà ta vừa nói, hai tay vẫn chăm chỉ vò trong đống bọt
xà phòng.
“Ở đây
cũng không đến nỗi bận lắm.”
“Sao lại
không bận? Chả khác nào trông em bé, đi đâu cũng không dám đi. Ở bên tòa nhà
Long Phi, tôi còn làm thêm việc giặt đồ cho hai nhà nữa cơ đấy. Ông chủ nhà đây
nói, sẽ bù thêm tiền lương cho tôi. Tôi bảo, tôi làm có phải là vì tiền đâu!”
Tôi nói rằng
mình phải đi rồi, thì bà ta mới tỏ ý giữ ở lại, nói là quên mất chưa pha trà mời
uống nước, tôi vội bảo không cần thiết, rồi đi khỏi ra ngoài. Sau khi ra khỏi
nhà thì phát hiện ra quên mất chìa khóa xe, nhớ lại khi nãy lúc tôi đỡ vai anh ấy
đã vứt nó lên mặt bàn, vì vậy tôi lại quay vào để lấy. Anh ấy nhìn mà như không
trông thấy, vẫn tựa vào bên cạnh bàn, ngón tay vạch lên mặt bàn hình chữ “Gạo”,
không biết là nghĩa thế nào.
Trên đường
về nhà, trong đầu tôi cứ nghĩ đến anh Khang mãi, không rõ anh ấy làm sao mà ra
nông nỗi như thế. Một thân một mình ở Thanh Hải, suốt hai mươi năm, các bạn
cùng học không một ai tin tức thư từ gì. Rốt cuộc anh ấy đã sống qua hai mươi
năm đó thế nào, tất cả đã bị chôn giấu trong im lặng. Về tới nhà, ăn cơm, đi ngủ,
chơi đùa với các con rồi, mà tôi vẫn không thể gạt bỏ được hình ảnh bộ dạng như
một cây củi khô của anh Khang sang một bên, thành thử chẳng làm sao mà an tĩnh
lại được. Tôi luôn muốn tìm một ai đó để nói chuyện này, nhưng cứ định cất lời,
lại cảm thấy chẳng nói được rõ ràng, nên cuối cùng không nói nữa, mà chỉ tính cách
bố trí lại đến thăm anh ấy một bận, hy vọng có thể gặp được người anh cả của
anh ấy.
Chọn một
ngày nghỉ, mang theo một hộp bánh, tôi lại đến nhà Khang.
Chẳng ngờ,
anh cả anh ấy không ở nhà, nghe nói là có cuộc hẹn, chị dâu anh ấy cũng không ở
nhà, dẫn con đến lớp học đàn rồi. Anh Khang đang nằm ngủ trưa trên chiếc giường
gấp. Bà giúp việc thấy tôi đến, bất chợt khỏi cơn buồn ngủ. Vì đây đã là lần thứ
hai gặp lại, nên bà ấy nhiệt tình hơn hẳn, lập tức pha trà, mời tôi ngồi, rồi bảo:
“Buổi
trưa, ăn được bát rưỡi cơm, với sườn, cải xanh, đậu, lại húp bát canh. Ăn thì
ăn được đấy, chỉ phải đút cho chú ấy ăn. Ăn xong thì đi ngủ, cứ ngủ một giấc là
đến ba giờ, rồi là ngồi ở đó.”
“Trông anh
ấy như thế, chắc chẳng nhận ra được ai mấy?” – Tôi hỏi. Trong lòng chỉ mong anh
ấy có chút chuyển biến tốt.
“Chẳng nhận
được ai mấy.”
“Thế, anh
cả anh ấy thì sao?”
“Bác cả bảo,
thì chú ấy dường như có vẻ nghe được một tí. Bây giờ, tôi bảo chú ấy, thì chú ấy
có vẻ cũng nghe được chút rồi.”
“Xem chừng,
trong tâm trí anh ấy vẫn còn hiểu được một chút.” Tôi thở phào một hơi.
“Tôi bảo
chú ấy ăn cơm, chú ấy cũng biết cầm bát, bảo đi ngủ, chú ấy cũng biết cởi giày,
cởi áo ngoài, làm giỏi lắm.”
“Bà phải
chăm sóc cho anh ấy tốt vào.”
“Tôi có
chăm sóc chú ấy không tốt bao giờ! Ông chủ bảo tôi mua cái gì ngon ngon cho chú
ấy ăn, nghe nói ở Thanh Hải chú ấy chả có gì ăn, bây giờ nên là lúc được hưởng
phúc rồi. Ngày nào tôi cũng phải động não nghĩ món mới cho chú ấy, hôm qua đã
mua gan lợn, còn hôm nay là sườn, làm sườn xào chua ngọt.”
“Anh ấy có
thích ăn không?”
“Chú ấy biết
thế nào là ngon đấy! Như hôm nay này, sườn xào, chú ấy ăn nhiều lắm, biết cả đấy!”
Tôi thở
phù một hơi.
“Chú này!”
– Bà giúp việc gọi tôi – “Chú bảo, tôi làm như thế, chẳng phải là được việc quá
còn gì? Chỉ còn kịp mỗi thở thôi đấy!”
Tôi không
biết đáp lời bà ấy thế nào.
“Nói cũng
đúng, người ta cũng chỉ cần còn thở được, còn thở được là còn sống, không còn
thở thì chết mất rồi.” Bà ấy chép miệng nói. Ánh nắng buổi chiều qua cửa sổ
phía tây rọi vào, soi lên mái đầu dường như rụng gần hết tóc của bà ấy, sáng lấp
loáng.
Anh Khang
động đậy trở mình trên chiếc giường gấp.
“Dậy rồi.”
Bà giúp việc đứng dậy, đi đến đỡ anh ấy lên. Anh Khang nhờ bà ấy đỡ ngồi trở dậy,
rồi lại đứng hẳn lên, chầm chậm nhờ bà giúp việc đỡ đến bên chiếc bàn vuông ngồi
xuống, đối diện với chỗ tôi ngồi. Ánh mắt lướt qua tôi vô định, rồi đáp xuống mặt
bàn. Ngồi như vậy hồi lâu, ngón tay anh bắt đầu cử động trên mặt bàn, vẫn là vạch
nên một chữ “Gạo” ấy.
Bà giúp việc
vừa thu dọn chiếc giường gấp, vừa nói với tôi: “Đấy, chú ấy lúc nào cũng như thế.”
Bỏ chiếc giường vào trong tủ tường xong, bà ấy bèn đi lại, đỡ anh Khang bảo:
“Đi vệ sinh nhé!”
Anh Khang
ngoan ngoãn đi theo bà ấy, một lát, từ trong nhà vệ sinh có tiếng xối nước vọng
lại. Tôi đứng lên, quyết định cáo từ, trong bụng rất không muốn nhìn bà giúp việc
biểu diễn công việc sinh hoạt của anh ấy cho tôi xem. Tôi nói mình phải đi, quả
nhiên bà ấy tỏ ý thất vọng, bảo còn chưa uống xong trà! Nhưng tôi vẫn rời khỏi
đó.
Tôi không
còn muốn lại tới thăm anh ấy nữa, nhưng trong lòng vẫn đầy nghi hoặc, không biết
cuộc sống trong hai mươi năm ấy của anh rốt cuộc thế nào? Xem ra còn chưa lấy vợ,
mà làm sao anh đột nhiên lại đổ bệnh như vậy? Còn nữa, cái chữ “Gạo” được anh
luôn viết đi viết lại mãi ấy, là nghĩa thế nào? Tất cả những điều ấy, chỉ có đi
hỏi anh cả anh ấy thôi. Thật khéo, hôm ấy đi xem phim ở Hội trường Văn nghệ,
tôi đã gặp được anh cả của anh Khang, sau khi gật đầu chào nhau, tôi bèn lên tiếng:
“Đến nhà
anh hai bận mà đều không gặp được anh.”
“Hóa ra là
anh! Tôi có nghe bà cô giúp việc nói, mà rốt không nghĩ ra được là ai.” – Ông ấy
vô cùng nhiệt tình, mời tôi ra căng-tin ngồi một chút, tôi bèn cùng đi. Vẫn còn
hơn mười phút mới đến giờ chiếu phim.
“Anh Khang
bị làm sao mà khổ thế không biết!” – Không đợi ngồi yên, tôi bèn hỏi ngay.
Anh ấy lặng
lẽ hồi lâu, móc một điếu thuốc, châm.
“Anh Khang
vẫn chưa lập gia đình?”
“Chưa.” – Ông
ấy lắc đầu.
“Anh Khang
ở đó thế nào?”
Người anh
cả nhả một hơi khói. Ngón tay trỏ và ngón tay giữa kẹp lấy điếu thuốc, ngón cái
và ngón áp út xoay xoay hộp diêm, rồi chậm rãi nói: “Đầu tiên là lao động, sau
đó được điều đến phòng văn hóa một huyện.” Ông ấy nói tên của một huyện, mà tôi
chưa từng nghe thấy bao giờ.
“Huyện
gì?” – Tôi hỏi lại.
Ông ấy nhắc
lại một lần nữa, nhưng vẫn là rất xa lạ, nghe rất kỳ dị, cũng không biết mấy chữ
ấy viết như thế nào.
“Từng ấy
năm, anh ấy có về nhà lần nào không?”
“Về nhà
hai lần, cũng không tránh khỏi gầy đi một chút, nhưng tinh thần còn tốt.”
“Anh ấy vẫn
gửi thư về luôn chứ?”
“Trong thư
thì lúc nào cũng nói tốt lắm. Tôi có mấy lần gửi bột mạch khô cho nó, nhưng lúc
nào nó cũng bảo không cần phải gửi, thế là tôi không gửi nữa. Bây giờ nghĩ lại,
vẫn cứ áy náy với nó. Về sau nghe người ta nói, cuộc sống ở Thanh Hải vô cùng
khốn khó.”
“Nhưng, rốt
cuộc thì anh cũng khó làm được gì cho anh ấy.” Tôi an ủi ông.
“Sau khi
“Bè lũ bốn tên” bị đánh đổ, tôi đã chạy vạy cho nó, cuối cùng cũng xong. Được cải
chính rồi, có chính sách rồi, sắp được về Thượng Hải rồi, hành lý cũng đều đã
chuẩn bị xong xuôi, đã đánh điện đi rồi đấy. Chúng tôi đi đón xe, nhưng không
đón được, nghĩ bụng không chừng có việc gì ngăn trở rồi, nào ngờ vừa từ bến xe
quay về đến nhà, thì nhận được điện báo khẩn cấp của đơn vị nó, nói là nó bị bệnh
rất nguy ngập. Chúng tôi bàn nhau đi Thanh Hải, chẳng ngờ lại có điện báo gửi đến,
nói là nó đã qua cơn nguy hiểm, trong ngày đã cho người hộ tống về Thượng Hải,
nên chúng tôi lại không đi nữa. Về sau lại lấy làm tiếc, đáng ra nên đi một
chuyến, chứ bây giờ rốt cuộc nó đã ở đâu, sống như thế nào, chúng tôi chẳng biết
gì hết.”
“Anh không
hỏi thăm cái người đã đưa anh ấy về ư?”
“Đưa nó về
là một cậu thanh niên còn trẻ, vừa mới được phân về phòng Văn hóa chỗ nó mấy
tháng, cũng không quen biết gì em tôi cả, chỉ nói nó là người rất trung hậu. Điều
ấy thì chẳng cần cậu ta nói.” – Ông ta bật cười với vẻ khác thường – “Cùng đem
về theo người, còn có một cuốn sổ nát, một cái vali da rách, với mấy trăm đồng
bạc. Chỉ có thế thôi.”
“Anh ấy về
đến nhà đã như thế rồi?”
“Đã thế đấy!
Có lẽ ngây ngơ hơn một chút. Bây giờ ở nhà đã khá hơn lên tí xíu rồi.”
“Rốt cuộc
là anh ấy bị bệnh gì?”
“Xuất huyết
não. Vào tối trước hôm lên xe về, đại khái là vì hưng phấn quá độ mà bị như thế.”
Tôi im lặng.
Ông ấy
cũng im lặng.
Im lặng hồi
lâu, tôi hỏi: “Anh ấy cứ luôn luôn viết một chữ “Gạo” ấy là nghĩa làm sao?”
“Chúng tôi
cũng cảm thấy rất kỳ lạ, thực sự là kỳ lạ. Cái gì nó cũng quên hết, nhưng chỉ
nhớ một chữ “Gạo” vô nghĩa ấy. Bà xã tôi bảo, có nhẽ đận đói kém mất mùa khi ấy
đã khiến chú ấy vô cùng khốn khó, nên đã nhớ chết vào đầu một chữ “Gạo” ấy. Thằng
con tôi thì bảo, chắc đó là cô gái họ Mễ[2]
nào, nó lại còn mở cả cuốn “Bách gia tính” ra để chứng minh cho tôi là đích thực
có họ Mễ nữa chứ. Tôi nghĩ, cũng có khi chả phải là chữ nào cả, mà đó chỉ là những
đường nét đơn giản, mà nó quen tay vẽ ra một cách máy móc vô ý thức thôi. Anh
xem, đó chẳng phải là những đường nét đơn ư, chỉ có hai chữ thập cắt nhau.” Ông
ấy dùng ngón áp út, chấm vào vết nước trà ở bên cạnh, vẽ ra cho tôi xem.
Tôi thấy buồn
bực trong lòng, xin một điếu thuốc, chụm vào đầu điếu thuốc của ông ấy châm, rồi
bật ho thành tiếng.
“Cũng có
thể, đó đúng là chữ, thì ấy hẳn phải là một điều khắc cốt ghi tâm lắm. Rốt cuộc
nó có nghĩa là gì, thì lại thấy không đành lòng mà truy xét tiếp nữa.” – Ông ấy
cười vẻ buồn rầu.
Tôi ho hắng.
“Muốn hiểu
được tất cả mọi điều, tốt nhất là tới nơi ấy một chuyến. Nhưng, xa xôi quá, huyện
mà nó ở lại càng hẻo lánh, cơ hội để đi tới đó e là chẳng có nhiều.”
“Những năm
tháng ấy, các bạn học cũ chúng tôi đã thiếu quan tâm đến anh ấy quá.” Tôi hối hận
nói.
“Nếu nói
như vậy, thì phải là tôi mới đúng. Thời gian đó, mọi người đều khó mà bảo vệ nổi
chính mình. Nói ra thì, tôi với nó cũng chỉ là anh em cùng mẹ khác cha. Tôi đưa
nó đến Thượng Hải, có thể lại là làm hại nó.”
Tôi dừng lại
giây lát, cuối cùng cũng hỏi một câu mà tôi muốn hỏi từ lâu nhưng không dám nói
ra: “Bác sĩ, có nói là, anh ấy có thể duy trì được bao lâu không?”
“Bác sĩ
nói rồi. Nói là, có thể rất lâu.” Ông ấy nói xong bèn trở nên lặng lẽ, rồi dụi
tắt điếu thuốc.
Tiếng
chuông trong hội trường đã vang lên, không một ai trong chúng tôi cử động.
Những cảnh
ngộ mà anh ấy đã gặp phải suốt hai mươi năm qua rốt cuộc không thể biết được một
tí gì, càng không biết cái chữ “Gạo” bất tử ấy là biểu thị điều gì? Chỉ biết rằng
tất cả những gì bên trong anh ấy, thì chỉ có một chữ “Gạo” này là còn sống. May
mà chữ “Gạo” này còn sống, nên anh ấy mới không bị chết hẳn, vẫn còn một chút
hơi thở ra hít vào. Tôi bất giác nhớ đến câu nói về sự sống của bà giúp việc ấy,
và cảm thấy thật thấu đáo, rốt cuộc vẫn là người già từng trải.
Tiếng
chuông lại vang lên lần thứ hai. Chúng tôi đều nghe thấy, và dường như cùng đứng
lên một lúc.
“Vào xem
phim đi!” – Ông ấy nói.
“Vào xem
phim!” – Tôi nói.
Rồi chúng
tôi cùng đi. Ánh mặt trời tựa như những giọt thủy ngân lăn tròn trên mặt lá./.
Châu Hải Đường dịch
(Đăng trên TC VNQĐ số 983, tháng 2/2022)
Giới thiệu
tác giả:
Vương An Ức, sinh năm 1954 tại Nam Kinh, Giang
Tô, hiện sống tại Thượng Hải, nữ nhà văn đương đại Trung Quốc, hiện là Phó chủ
tịch Hội nhà văn Trung Quốc, chủ tịch Hội nhà văn Thượng Hải, Giáo sư đại học
Phúc Đán. Năm 1976 bà xuất bản tập tản văn đầu tay “Tiến lên”, năm 1987 được điều
vào Ban sáng tác Hội nhà văn Thượng Hải, và theo đuổi sáng tác chuyên nghiệp.
Năm 1996, Vương An Ức xuất bản tiểu thuyết “Trường Hận ca” và giành được Giải
thưởng văn học Mao Thuẫn lần thứ 5. Từ năm 2005 đến nay, Vương An Ức nhiều lần
giành được giải thưởng văn học như: giải thưởng văn học Lỗ Tấn lần 3 cho truyện
ngắn “Phát lang tình thoại”, giải thưởng “Hồng Lâu Mộng” hạng nhất về Tiểu thuyết
tiếng Hoa thế giới lần thứ 4 cho tiểu thuyết “Thiên hương”, Huân chương Hiệp sĩ
về Văn học nghệ thuật của Pháp … Các tiểu thuyết của bà như “Thời đại Khải
mông”, “Trường Hận ca”, “Thắm sắc hoa đào” đã được dịch và giới thiệu ở Việt
Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét