Liễu Trung Dung 柳中庸 tên thật là Đạm 淡, người Hà Đông (TQ), không rõ năm sinh năm mất, đậu Tiến sĩ khoảng niên hiệu Đại Lịch đời Đường, từng làm chức Hộ tào ở Hồng Phủ, là bạn thơ cùng nhóm Lư Luân, Lý Đoan.
Gần đây đọc được bài thơ Thính Tranh của ông, thấy chưa có ai dịch (hoặc mình chưa được biết) nên đưa lên đây mong mọi người cùng tham gia dịch.
听筝
抽弦促柱听秦筝, 无限秦人悲怨声。
似逐春风知柳态, 如随啼鸟识花情。
谁家独夜愁灯影? 何处空楼思月明?
更入几重离别恨, 江南歧路洛阳城。
THÍNH TRANH
Trừu huyền xúc trụ thính Tần tranh;
Vô hạn Tần nhân bi oán thanh.
Tự trục xuân phong tri liễu thái;
Như tùy đề điểu thức hoa tình.
Thùy gia độc dạ sầu đăng ảnh;
Hà xứ không lâu tư nguyệt minh?
Cánh nhập kỷ trùng li biệt hận;
Giang Nam kỳ lộ Lạc Dương thành.
Dịch nghĩa:
So dây nắn phím nghe vẳng tiếng đàn tranh nước Tần;
Biết bao nhiêu tiếng buòn thảm của người đất Tần.
(âm thanh) Dường như đuổi theo làn gió xuân biết được dáng vẻ của liễu;
(Lại) như theo tiếng chim hót hiểu rõ tâm tình của hoa.
Nhà ai đêm một mình buồn bã với bóng đèn cô lẻ;
Nơi nào lầu cao trống vắng nhớ đến đêm trăng sáng?
Lại càng thêm vào mấy lớp hận chia li;
đất Giang Nam, thành Lạc Dương con đường gập ghềnh trắc trở.
(Bài thơ Thính Tranh CHĐ viết tặng đào nương Thùy Linh - Ca trù Thăng Long)
Dịch thơ:
Nắn phím so dây vẳng tiếng tranh;
Nghe dường ai oán biết bao tình.
Như hòa chim hót hay hoa thắm;
Tựa quyện xuân phong biết liễu xanh.
Đêm vắng nhà ai sầu bóng lẻ;
Lầu không nào chốn nhớ trăng thanh.
Khúc đâu mấy lớp sầu ly biệt;
Khắc khoải Giang Nam lại Lạc Thành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét