(Trả lời phỏng vấn của tạp chí “Trung
Hoa Tản Văn”)
HỎI: Từ sau năm 1990, trên văn đàn xuất hiện hàng
loạt những làn sóng về tản văn với đủ hình thức muôn màu muôn vẻ mà trước đây
chưa từng có, như “tản văn nữ”, “tản văn đại văn hóa”, “tản văn tiên phong”, “hậu
tản văn”, tản văn trên các báo chí cũng như tản văn trên mạng…Trước cơn sốt về
tản văn như vậy, ông thấy như thế nào?
Phùng Ký Tài (PKT): Do sự thị trường hóa của văn hóa, trước “cơn sốt tản văn” mà đợt sóng
này chưa lắng xuống, đợt sóng khác đã dâng lên, phải thật sự thận trọng. Nó có
thể là việc “xây dựng thương hiệu” của một nhà buôn đạo diễn. Tất nhiên, cũng
có thể đó là một kiểu “xây dựng văn hóa”, đó là một căn bệnh cũ trên văn đàn.
Thích tiếng tăm, thích phong trào, thích tạo nên những làn sóng, thích có một
lý do và một vị thế. Tựa hồ như vậy thì có thế thừa thắng xông lên, người đông
thế mạnh, thành tâm điểm một thời. Thường thì sau khi cơn “sốt” đã hạ nhiệt,
khói lặng mây tan rồi, cái còn lưu lại chỉ là một khoảng trống hoang vu. Thực
ra tản văn rất cần một tâm thái bình thản. Một bộ tiểu thuyết có thể gây ra một
trận “kinh thiên động địa”, nhưng một thiên tản văn thì không thế được, tản văn
không có một trọng lượng cũng như năng lượng lớn như thế.
HỎI: Những sáng tác tản văn gần đây, ông nhận thấy
còn tồn tại những vấn đề gì đáng phải chú ý?
PKT: Lặp lại lẫn
nhau, tạo tác mà không tự nhiên, đáng sợ nhất là tình cảm giả tạo.
HỎI: Một con cá nhỏ, sau khi đã lớn lên, thì
không thể sống được trong cái bể nhỏ nữa. Nó được thả về biển. Thế nhưng sau
đó, con cá ấy rất khổ sở, bởi vì nó không bao giờ có thể chạm vào cái thành bể
cá nữa. Cái thành bể cá ấy, chính là định nghĩa mà người ta đặt ra cho tản văn
trước kia. Lấy thực tiễn sáng tác của ông làm tiêu chuẩn, xin ông hãy đưa ra một
định nghĩa mới “thế nào là tản văn”, nói một chút những nhận thức cơ bản của
ông đối với tản văn.
PKT: Khi con
cá nhỏ chạm vào được tâm linh của chính nó, chạm vào được linh tính của ngôn ngữ
và vẻ đẹp cá tính của chính mình, thì nó đã chạm vào được thành bể của tản văn.
Tiểu thuyết là thuộc về xã hội, tản văn là thuộc về chính mình. Nhưng những tiểu
thuyết hiện nay đang cố gắng cá nhân hóa, còn tản văn thì dồn sức vào vô vàn hiện
tượng mà gánh nặng không thể cáng đáng nổi. Về định nghĩa tản văn, có thể mỗi một
người đều có một cách nói. Tôi nghĩ, dù nói thế nào đi nữa, nó cũng không ngoài
một câu: tản văn là những câu chữ lột tả tâm hồn. Nếu nói đơn giản một chút,
thì là: Tản văn là văn tự của tâm linh. Từ đó chúng ta phân biệt giữa tản văn với
tùy bút, tức là: tản văn thì thuộc về tâm linh, tùy bút thì thuộc về trí óc. Tản
văn bắt nguồn từ tâm linh, tùy bút thì đến từ sự suy nghĩ. Tản văn mang nhiều sắc
thái tình cảm hơn, còn tùy bút thì chiếm phần lớn là suy xét biện luận.
HỎI: “Cơn sốt tản văn” đã thúc đẩy sự
phát triển đa nguyên hóa cho tản văn. Đồng thời, sự đa nguyên hóa của tản văn,
cũng khiến rất nhiều người viết, người đọc bị rối loạn trước câu hỏi “thế nào
là tản văn hay?”. Xin ông cho biết, tiêu chuẩn để xác định một thiên tản văn
hay là gì?
PKT: Thứ nhất,
đó là tính phát hiện của đề tài; Thứ hai, đó là những chi tiết chưa có ai từng
sử dụng; Thứ ba, ngôn ngữ sâu sắc, có những câu văn hay. Điều thứ nhất nói ở
trên, thể hiện con mắt nhìn độc đáo của tác giả đối với cuộc sống. Điều thứ hai
thể hiện sự mẫn cảm cũng như độ sâu sắc của tác giả trong việc quan sát cuộc sống.
Còn điều thứ ba, thể hiện tài năng về văn học (ngôn ngữ) của tác giả.
HỎI: Trong những sáng tác gần đây, đặc tính thẩm
mỹ của tản văn được thể hiện ở điểm nào? Nó thông qua con đường đặc biệt nào, để
nắm bắt và thể hiện trải nghiệm phức tạp trong thời đại hiện nay của chúng ta? Làm
thế nào để nó có thể trở thành một hình thức ngôn ngữ thực sự đối mặt với sự trải
nghiệm của tự thân chúng ta, đối mặt với linh hồn của chính bản thân chúng ta?
Loại hình thức ngôn ngữ ấy có gì khác biệt với tiểu thuyết, thơ ca?
PKT: Tiểu thuyết
thì cần có những đoạn tản văn, nhưng tản văn thì không thể có những đoạn của tiểu
thuyết. Thơ ca không thể dùng ngôn ngữ của tản văn, nhưng tản văn cần phải đột
xuất có những câu chữ của thơ ca.
Người dẫn thuật trong tiểu thuyết thường
thường là hư cấu, không phải là của bản thân tác giả, cho nên ngôn ngữ văn bản
của tiểu thuyết thường là ngôn ngữ cá tính của người dẫn thuật hư cấu, không phải
là ngôn ngữ của chính bản thân tác giả. Nhưng ngôn ngữ trong tản văn chỉ có thể
là của chính tác giả của nó. Còn nữa, ngoài ngôn ngữ ra, xây dựng lên tiểu thuyết
là tình tiết, còn xây dựng lên tản văn là những chi tiết. Cần phải nói rõ rằng,
tản văn hoàn toàn không phải là xóa bỏ hư cấu. Nó không thể hư cấu nên sự kiện
và nhân vật như là tiểu thuyết, nhưng nó có thể hư cấu bối cảnh và không khí.
Hư cấu không phải là một sự giả tạo, mà là một sự sáng tạo. Hư cấu phục vụ cho
sự cần thiết trong nội tâm của tác giả, đồng thời phục vụ cho sự cần thiết của
thẩm mỹ.
HỎI: Tác giả tản văn nào có ảnh hưởng lớn nhất với
ông? (không phân biệt trong và ngoài nước, và số lượng từ một đến ba người).
Tác phẩm nào của họ mà ông thích nhất? Và vì sao ông thích nó?
PKT: Tác giả đầu
tiên là Turghenev, với tác phẩm “Bút Ký Người Đi Săn” (bản dịch của Phong Tử Khải).
Lý do là: cuộc sống mà chúng ta ghi nhớ, đều mang tính phiến đoạn, một tản văn
hay thể hiện ở một số phiến đoạn hay. Tác phẩm “Bút Ký Người Đi Săn” có nhiều
vô số những đoạn hay, những phiến đoạn về cuộc sống và phong cảnh đẹp đến mê hồn.
Tác giả thứ hai là Tô Thức, với tác
phẩm “Tiền Xích Bích Phú”. Lý do là: Tràn đầy tính thơ và ý thơ. Trên thực tế,
rất nhiều tác phẩm tản văn kiệt xuất Trung Quốc xưa đều mang đậm tính thơ và ý
thơ. Xuất phát từ tính thơ và ý thơ đó, họ cảm thụ, thăng hoa, và biểu hiện cuộc
sống. Tô Thức đã cho chúng ta biết, đem cuộc sống biến thành nghệ thuật không
phải ở trong việc viết lách, mà nó bắt đầu ngay từ việc cảm thụ cuộc sống.
Tác giả thứ ba là Lỗ Tấn, với tác phẩm
“Hoa Sớm Tàn Chiều”. Lý do là: ý cảnh nhân sinh thẩm mỹ hóa là một đặc tính văn
học rất cao quý.
HỎI: Trong lịch sử phát triển văn học, có một hiện
tượng rất lý thú, có một số tác giả, mang nhiều gương mặt khác nhau, vừa là nhà
thơ, lại là nhà văn viết tiểu thuyết, lại kiêm sáng tác tản văn. Ông nhìn nhận
hiện tượng sáng tác trên nhiều thể loại như thế này ra sao?
PKT: Một thể
tài hay một hình thức chỉ thích hợp cho biểu hiện một cái gì đó. Khi biểu đạt một
cái khác, thì phải sử dụng một hình thức và thể tài văn học khác. Thể loại văn
chương không phải là một chướng ngại đối với một tác giả, nó chỉ giúp đỡ và
hoàn thiện thêm cho tác giả biểu đạt chính mình được tốt hơn.
HỎI: Sáng tác tản văn hiện nay, đã đột
phá tính đơn nhất của chủ đề, hướng tới sự phát triển đa chủ đề, thành một bản
hòa tấu nhiều biến tấu. Ông có cho rằng, đó là phương hướng phát triển của sáng
tác tản văn thế kỷ 21 không? Viễn cảnh của nó như thế nào?
PKT: Đúng vậy.
Tản văn hiện nay đang đi đến tự do, nó có rất nhiều khả năng. Nhưng chúng ta
không thể làm thế nào mà đặt ra một quy định cho tản văn, và dự đoán “xu hướng
phát triển” của nó. Cái thực sự ảnh hưởng đến sự thay đổi dòng chảy của tản văn
là sự cải biến của cuộc sống và sự biến thiên của lịch sử thời đại, và còn nữa,
đó là sự chuyển biến về thẩm mỹ của độc giả. Nói đến viễn cảnh phát triển thịnh
vượng của tản văn mà chúng ta mong đợi, tôi nghĩ, dựng lên một mảnh trời tạnh
ráo đó là cái ô, dựng lên một quang cảnh lớn mạnh cho tản văn thì cần phải có sự
xuất hiện của một số nhà tản văn lớn.
(Dịch giả và Nhà văn Phùng Ký Tài tại Viện VHNT Phùng Ký Tài 5/2019) |
HỎI: Đây là một câu hỏi liên quan đến việc đọc
sách. Có một hòn đảo lẻ loi giữa biển khơi, phong cảnh rất đẹp, mời ông đến đó
nghỉ dưỡng nửa năm. Trên hòn đảo cách biệt đó, ông không phải lo đến chuyện ăn
mặc, cuộc sống là đầy đủ. Nhưng rất đáng tiếc là, ở đó không có một ai khác qua
lại giao lưu với ông. Để đảm bảo được hưởng cuộc sống tinh thần tự do, ông có
thể đem theo một cuốn tản văn mà mình thích (chỉ một cuốn thôi). Ông sẽ mang
theo cuốn sách gì?
PKT: Cuốn sách
đó là: “Phù Sinh Lục Ký”
HỎI: Vì sao ông lại mang cuốn sách đó?
PKT: Vì cuốn
đó có thể đọc đi đọc lại. Giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú, nó gợi lên
cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau. Một câu một chữ đều có thể sửa chữa chau chuốt
và gặm nhấm. Lịch sử văn học Trung Quốc, phải thành thục về thơ trước tiên, sau
đó mới là tản văn. Tản văn chịu ảnh hưởng của thơ, rất sành sỏi về chuyện “chuốt
chữ”, và cũng rất rành việc vận dụng một từ đơn. Sự tinh thâm của tản văn chữ
Hán cũng là ở đó. Không giống như sáng tác tản văn hiện nay, cứ viết là viết
miên man, đọc xong rồi chẳng lưu lại được gì cả.
HỎI: Trong các thiên tản văn mà ông đã hoàn
thành, ông thích nhất là những tác phẩm nào (chỉ từ một đến ba thiên thôi.)? Vì
sao?
PKT: Tác phẩm
thứ nhất là: “Trân Châu Điểu” (Chim Ngọc Trai). Lý do là: Từ trong đó có thể
nhìn ra được sự tìm kiếm của mình, tức là cảnh giới được coi là trên hết, bất kể
là cảnh giới nhân sinh hay cảnh giới thẩm mỹ.
Tác phẩm thứ hai là: “Thư Trác” (Bàn
Sách). Lý do là: rất nhiều phiến đoạn trong đó đều là của chính tôi. Trên
phương diện có thể dùng văn tự thể hiện ra được nội tâm của mình hay không, đó
là một tiêu chuẩn để tôi đoán định sự thành bại trong tản văn của mình.
Tác phẩm thứ ba là: “Trí Đại Hải” (Gửi
biển lớn). Lý do là: Tôi rất ít đọc tản văn của mình, nhưng thiên tản văn này
không biết tôi đã đọc nó bao nhiêu lần. Cảm giác của tôi mỗi lần đọc nó đều giống
như được đến trước mặt Băng Tâm bằng xương bằng thịt vậy.
Tác phẩm thứ tư là: “Quý Mùi Thủ Ký”
(Ghi chép năm Quý Mùi). Lý do là: Để viết ra những cảm nhận, thể nghiệm và suy
nghĩ phức tạp của tôi trong công tác điền dã và điều tra về văn hóa, tôi từng
thử đem tản văn, tùy bút, và những văn bản nghiên cứu mang tính học thuật dung
hòa với nhau làm một. Tôi cảm thấy thể văn đó vừa giúp được cho sử dụng của
mình, mà viết ra cũng đắc tâm ứng thủ. Tất nhiên, cái đó chỉ thích hợp khi tôi
viết những nội dung như vậy thôi./.
(Châu Hải Đường dịch –
Theo tập “Tán Hoa” của Phùng Ký Tài,
Hoa Sơn Văn Nghệ xuất bản tháng 5/2009)