Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

Cha ông ta “cập nhật” sử Trung Quốc thế nào?

 Trong Chuyên đề “Hiểu Việt Nam”1 , tháng 8/2023, tôi có đăng toàn bộ bản dịch tác phẩm “An Nam truyện” của Vương Thế Trinh đời Minh (Xin lưu  ý, “An Nam truyện” của Vương Thế Trinh là tác phẩm khác, không  liên quan gì với “An Nam truyện – Chi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa” do Châu Hải Đường dịch và biên soạn). “An Nam truyện” của Vương Thế Trinh gồm 2 quyển, ghi chép các sự kiện lịch sử của An Nam từ Tần Hán đến đời Gia Tĩnh nhà Minh, trong đó tập trung chính là các sự kiện từ đầu đời Minh đến sau khi Mạc Đăng Dung xin hòa. Tác phẩm tuy còn sơ sài, nhưng cũng cung cấp thêm cho  chúng ta một số chi tiết có thể bổ sung thêm cho chính sử của ta, cũng như các cuốn sách ghi chép về lịch  sử khác ….



Đọc “An Nam truyện” của Vương Thế Trinh, tôi đặc biệt lưu ý đến một chi tiết, đó là:  Tháng Giêng, năm Hồng Vũ thứ 30 (1397),nhà Minh sai Hành nhân Trần Thành, Lã Nhượng sang dụ An Nam trả đất (?), bọn Thành, Nhượng có gửi thư cho vua Trần Thuận tông rằng: ““Sứ giả bất tài, làm nhục mệnh sáng của chúa thượng, rất lâu vẫn không quyết được, chẳng biết lấy gì để phục mệnh chúa. Nay, sứ giả xin viện cổ dẫn kim, phân tích lợi hại mà nói cho các quan chấp sự biết. Thời Hậu Hán, Trưng Trắc làm phản, Mã Viện đánh diệt được, lập cột đồng để làm ranh giới trong ngoài, là một trong Ngũ quản từ đời Đường Ngu. Đến thời Tống, [An Nam] mới tự dựng lên, Càn Đức vào cướp biên cương, Quách Quỳ đến đánh dẹp, bắt được ngụy Thái tử Hồng Chân[1]. Càn Đức sợ mới cắt các đất Quảng Nguyên, Môn Châu, Tư Lãng, Tô Mậu, Quang Lang xin hàng. Nhà Nguyên mới có thiên hạ, thì tiên vương của các ngươi là Quang Bính xưng thần nộp cống trước tiên. Đến Nhật Huyên nối thì đổi tiết, vì vậy [Nguyên] Thế tổ đến đánh. Nhật Huyên phải chui rúc cỏ gai, đi thuyền trốn tránh ra hải đảo, thành quách tông miếu, xã tắc nhân dân cơ hồ không còn gì. Nhật Tốn xét những mất mát đời trước, thỉnh mệnh với nhà Nguyên, có nói rằng: “Trước nay, thiên sứ hạ cố đến tiểu quốc, việc nghênh tống chỉ dừng lại ở Lộc Châu, vì sợ mắc tội mạo phạm lấn vượt, nên không dám đi qua Khâu Ôn vậy.” Như thế thì đất từ Khâu Ôn trở về phía bắc không phải của nước ngươi, rất rõ ràng vậy. Nay, nước ngươi lại vượt Uyên, Thoát, quá Như Ngao, Khánh Viễn mà có hết những đất ấy. Phải chăng nhân khi cuối đời Nguyên loạn lạc mà thừa cơ may giành được chăng. Hôm Hành nhân mới bước xuống xe, quần thần của vương đều nói: Đất này từ xưa vốn thuộc An Nam, mà không nói bắt đầu thế nào. Chẳng phải là khoác lác mà lừa dối ta ư? Chắc hẳn là vương sợ phải tội vì việc xâm phạm đất đai nên cố tự che dấu chăng? Chúa thượng là bậc thần thánh, tất chẳng kể tội cũ của vương mà bằng lòng cho vương sửa lỗi vậy. Hãy tính cho kỹ.”

Nhà Trần bèn gửi thư lên bộ Hộ của nhà Minh, tranh biện rằng:  “Kính thấy, thượng ty vì nhận được bản tấu của phủ Tư Minh về việc [nước tôi] xâm chiếm đất đai, sai Hành nhân Trần Thành, Lã Nhượng đến hạ quốc, bắt phải trả lại. Hạ quốc trộm nghĩ, năm huyện Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh (Viễn), Uyên, Thoát từ xưa vẫn cung đốn tô thuế phu dịch cho hạ quốc, đời đời không bỏ. Mà Đồng[2] Đăng là đất của huyện Uyên, đường mà sứ thiên triều qua lại. Người Bằng Tường, phủ Tư Minh hàng năm vẫn bàn giao tiếp nhận phu kỵ với người huyện Uyên của hạ quốc ở Duy Quan, Pha La thuộc địa giới Bằng Tường. Nay người Tư Minh lại nói, hạ quốc lập trạm ở Đồng Đăng thuộc huyện ấy để xâm chiếm. Làm sao lại trái ngược như thế? Ôi! Lập trạm mà lại là có ý mưu tính lấy đất ấy ư? Đất từ xưa vẫn thuộc nước tôi, làm sao lại còn phải đợi mưu tính lấy? Ôi, sở dĩ dựng nhà cửa ấy, là vì thượng ty đã có lệnh ngăn chặn vượt qua địa giới, nên mới tạm dựng để tiện cho quan lại nghỉ đêm vậy, xong việc thì lại rút đi, chứ nào phải là để dự trù việc xâm phạm đâu? Lại nói, thời Nguyên, đại quân hai lần đánh Giao Chỉ, khi hồi quân thì dựng trại Vĩnh Bình, đặt quân trấn giữ, đòi người Giao giúp lương hưởng. Trộm xét, quân Nguyên hai lần đến đánh nhưng phần đa đều bất lợi phải quay về. Sử sách tuy tránh né mà không ghi tường tận, nhưng [chép] đến Trấn Nam vương thì nói: vương ở ải Nội Bàng, quân giặc kéo đến đông để chặn đường quân rút về. Vương bèn từ huyện Đơn Ba[3], kéo theo đường tắt Lộc Châu ra khỏi cửa quan. Như thế thì có thể biết rõ quân thế, tường tận đường về, há có chuyện hồi quân Vĩnh Bình mà dựng trại để trấn giữ cùng đòi người Giao [Chỉ] phải giúp lương hưởng ư? Lại nói, hạ quốc vượt quá cột đồng hơn hai trăm dặm, xâm chiếm năm huyện thuộc Khâu Ôn. Cột đồng tính từ khi mới dựng đến nay đã hơn một ngàn ba trăm năm mươi năm, núi khe biến thiên, ai còn có thể biện nhận được? Lại nói, bắt hỏi lão nhân là Hoàng Bá Nhan, có nói cho biết rằng như thế, như thế... Bá Nhan cũng là người Tư Minh, há chẳng cùng một mong muốn ư? Dẫu có một ngàn Bá Nhan cũng làm sao tin cho được?(…)


Xem bức thư tranh biện này, có một điểm khiến tôi phải lưu ý, đó là: các bộ sử thư của Trung  Quốc xưa, thường sau khi một triều mới lên thay triều cũ, mới cho bề tôi căn cứ vào các ghi chép, tài liệu về triều cũ (ví dụ như Thực lục … chẳng hạn) mà biên soạn một bộ  sử của triều cũ ấy. Nhà Minh sau khi giành được ngôi từ tay nhà Nguyên, mới cho bọn Tống Liêm biên soạn bộ “Nguyên sử”, và hoàn thành  vào năm Hồng Vũ thứ 3 (1370). Trong đó, Quyển 209 -  Ngoại di 2 - An Nam là những ghi chép về Việt Nam. Đọc lại truyện này quả nhiên có chép đúng như vậy:

“…Trấn Nam vương (Thoát Hoan) đến cửa ải Nội Bàng, quân giặc (tức quân nhà Trần) kéo đến rất đông, vương đánh phá được. Sai Vạn hộ Trương Quân đem ba ngàn quân tinh nhuệ đi chặn hậu, ra sức đánh, ra được khỏi ải. Quân do thám cho biết Nhật Huyên cùng Thế tử, và Hưng Đạo vương chia hơn ba mươi vạn quân, đóng giữ Nữ Nhi quan và núi Khâu Cấp, nối nhau hơn trăm dặm để chặn đường về quân Nguyên. Trấn Nam vương bèn từ huyện Đơn Kỷ chạy sang Lộc Châu, theo đường tắt mà ra, đến châu Tư Minh. Lệnh cho Ái Lỗ dẫn quân về Vân Nam, còn Áo Lỗ Xích thì đem các quân quay về bắc. 

Như vậy, với thời gian từ 1370 đến (trước) 1397, ở trình độ in ấn và thông tin khi ấy, có thể thấy nhà Trần đã “cập nhật” khá nhanh sử sách của Trung Quốc có liên quan đến chính triều đại của mình, để cũng chính từ đó tìm ra lý lẽ bảo vệ biên  giới, cương thổ của nước ta trước đối phương. Trong khi, việc tiếp xúc với những sách vở như vậy vào thời gian ấy không hề dễ dàng (đơn cử như trường hợp sứ giả Đặng Nhữ Lâm đời Trần, sang sứ nhà Nguyên năm 1301, đã bị ngăn cấm trong việc sao chép sách vở, vẽ hình cung điện … như thế nào.)

Một ý nữa được người xưa thẳng thắn nhắc đến trong đoạn thư trên, đó là câu: “… quân Nguyên hai lần đến đánh nhưng phần đa đều bất lợi phải quay về. Sử sách tuy tránh né mà không ghi tường tận,…” Có thể thấy, cha ông ta đã hiểu  rất rõ về tình trạng “tốt khoe, xấu che” ấy trong việc ghi chép sử sách của triều đình phương Bắc. Vì thế khi tiếp xúc với các ghi chép về lịch sử từ các nguồn khác nhau, đặc biệt từ các nguồn đối lập, chúng ta luôn cần có một sự tỉnh táo, và cũng không nên lấy làm lạ, khi Tống sử ghi chép rất sơ sài về cuộc kéo quân đi chinh phạt nhà Lý, hay tương tự như vậy ở các bộ sử khác …

Về sự kiện Trần Thành, Lã Nhượng sang nước ta đòi đất nói trên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không có ghi chép gì. Trong Minh sử - An Nam truyện thì lại có những ghi chép như sau (tuy không ghi chép rõ nội dung hai bức thư trao đổi giữa hai bên):

Thổ quan châu Tư Minh là Hoàng Quảng Thành tâu: “Từ khi nhà Nguyên đặt Tư Minh tổng quản phủ, quản hạt các châu huyện ở Tả Giang, phía đông đến châu Thượng Tư, phía nam đến cột đồng làm ranh giới. Nhà Nguyên đánh Giao Chỉ, chuyển cột đồng đi một trăm dặm, lập Vạn hộ phủ ở trại Vĩnh Bình, sai quân đến trấn thủ, lệnh cho người Giao Chỉ phải cung cấp lương hưởng cho quân. Cuối đời Nguyên loạn lạc, người Giao Chỉ công phá Vĩnh Bình, lại dời ngược cột đồng lên hơn hai trăm dặm, xâm đoạt đất năm huyện thuộc châu Tư Minh là Khâu Ôn, Như Ngao, Khánh Viễn, Uyên, Thoát. Gần đây lại báo với Nhâm thượng thư đặt trạm dịch ở đất Đỗng Đăng của Tư Minh. Thần từng dâng tấu, được ơn vua cho Dương thượng thư đến xem xét thực tình. Xin bệ hạ sắc cho An Nam đem đất năm huyện trả lại cho thần, vẫn lấy đồng trụ vạch làm địa giới.” Hoàng đế sai Hành nhân Trần Thành, Lã Nhượng sang truyền dụ, nhưng Quý Ly vẫn nhất định không nghe theo. Thành tự viết thư dụ Nhật Côn, Quý Ly lại gửi thư tranh biện, và viết thư giúp Nhật Côn đưa tới Hộ bộ (nhà Minh). Bọn Thành về phục mệnh, (…)”

Đọc thêm những ghi chép từ “Minh sử - An Nam truyện” này, các bạn sẽ lại hiểu thêm một chút về câu chuyện ấy. Rõ ràng, chân tướng của một sự kiện lịch sử có thể thấy rõ hơn qua nhiều thông tin đơn lẻ ở nhiều tài liệu khác nhau, đó chính là lý do, những người yêu lịch sử luôn tìm đọc rất nhiều tư liệu khác nhau để nhìn thấu đáo hơn về một câu chuyện lịch sử.

(Châu Hải Đường)                     



[1] Sử Trung Quốc chép nhầm, nước ta không có vị Thái tử nào là Hồng Chân cả.

[2] Đồng: Nguyên văn chép là Động (Đỗng)  洞.

[3] Đơn Ba (單巴): Nguyên sử- An Nam truyện chép là huyện Đơn Kỷ (單己).

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

CON MỘC – CÁI MỘC

Còn nhớ một giai thoại về truyện trạng Quỳnh, tôi đã đọc từ hồi còn bé, kể rằng: vì muốn được ngắm dung nhan cô Điểm nên Quỳnh thường chầu chực ở ngoài cửa trường nơi thầy Đoàn Doãn Nghi – thân phụ cô Điểm dạy học. Một bận, thầy Đoàn Doãn Nghi bắt gặp Quỳnh “rình mò” ngoài cửa, bèn gọi vào ra câu đối rằng: “THẰNG QUỶ ÔM CÁI ĐẤU ĐỨNG CỬA KHÔI NGUYÊN.” Quỳnh bèn đối lại rằng: “CON MỘC TỰA GỐC BÀNG NHÒM NHÀ BẢNG NHỠN.” Ông Nghi thấy Quỳnh đối đáp giỏi, rất phục, bèn tha không bắt tội. Sách cũng cẩn thận chú rằng: câu ra đối của ông Đoàn Doãn Nghi khó ở chỗ chữ Quỷ () và ch Đấu () hp li thành ch Khôi (); nhưng trng Qunh đã đối li được: bi, ch Mc () và ch Bàng () hp li thành ch Bng (). Song, nếu xét k, tuy v mt chiết t thì trng Qunh đã lựa được chữ Bảng trong chữ Bảng Nhỡn, mà đối với chữ Khôi trong Khôi Nguyên là hai thứ hạng trong thi cử xưa, nhưng câu ra đối thì còn là câu có ý nghĩa, chứ câu đối lại của trạng Quỳnh nếu chỉ là chiết tự chữ Bảng thành Mộc và Bàng thì có gì mà hay?

Trong các bạn, nếu ai thích chèo, chắc hẳn đã từng xem vở chèo cổ nổi tiếng “Xúy Vân”, hoặc nếu không thì, nhất định cũng từng xem tích hề chèo “Phù thủy sợ ma” trích từ vở chèo này. Trong trích đoạn hề chèo “Phù thủy sợ ma” ấy, có đoạn đối đáp giữa Hỉ đồng – tiểu đồng nhà Kim Nham với thầy phù thủy như sau:

“Hỉ đồng: Gặp được thầy lòng mừng khôn xiết, nay trong nhà vẫn chửa được yên, mời thầy về lập đàn chữa mộc ạ!

Thầy phù thủy: Chữa mộc hay là chữa tay co? Cứ mua mây về rồi thầy nức lại cho, đan cái mộc mới để làm gì cái mộc cũ ấy?

Hỉ đồng: Không! Mộc là con ma mộc kia ạ!

Thầy phù thủy: Mày cứ lòe tao! Tao lạ gì! Mộc mà có cái chữ “Lực” viết đằng sau, các quan mang đi đánh giặc đấy chứ gì?

Hỉ đồng: Không! Không! Con ma mộc mà nó cắn được cả người, nuốt được cả người cơ!”

Đoạn trò này là sau khi Xúy Vân giả điên giả dại để nhằm khiến Kim Nham phải viết giấy “Hưu thê” cho mình, mà đi theo Trần Phương, vì thế người nhà cho là bị ma làm nên đã đi kiếm thầy phù thủy về cúng trừ ma.

Qua mấy câu đối đáp này, thì dường như có một thứ ma quỷ được gọi là “Mộc” hay “ma Mộc”. Đồng thời lại có một đồ vật gọi là “cái mộc”, và hẳn là chúng đều khá thông dụng nên mới được dùng vào màn hề chèo vốn là trò gây cười trong sân khấu chèo, bởi chẳng ai lại đi kể truyện cười bằng những yếu tố khó hiểu để người nghe phải về đến nhà rồi mới hiểu mà cười bao giờ. Theo như mô tả của thầy phù thủy trong trích đoạn hề chèo trên, thì cái mộc được đan bằng mây, và dùng trong chiến trận (các quan đem đánh giặc).

Vâng. Chính thế, xin thưa, có một loại ma quỷ được gọi là Mộc, ma Mộc là một thứ ma quái trong cây gỗ; Và có một đồ vật được gọi là cái mộc – tức là một loại lá chắn, dùng để che chắn thân mình, tránh tên bắn, hay gươm giáo đâm chém, tương tự như cái khiên. Mộc có thể làm bằng gỗ, có hoặc không bọc da, cũng có thể đan bằng tre nứa, song mây …

Tuy nhiên, trong các từ điển gần đây, tiêu biểu là “Từ điển tiếng Việt” Hoàng Phê, mục từ Mộc hầu như chỉ có các trường nghĩa: 1. Cây mộc (hoa mộc, tức quế hoa); 2. Chỉ các thứ gỗ hay làm bằng gỗ; 3. Tính từ, mang ý nghĩa thô sơ, chưa gia công, trang sức … và 4. “Vật cầm tay để che đỡ cho gươm giáo khỏi đâm trúng người trong chiến trận xưa …”. Song không thấy nói đến nghĩa “ma mộc”.

Nhưng, xem thêm trong các từ điển cũ hơn, thì chúng tôi đã thấy có manh mối về “con ma mộc” này:

“Đại Nam quấc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh Của, mục chữ “Mộc” có ghi nhận từ “Mộc đè” như sau: “Bị ma cây đè trong khi ngủ. Đương lúc nằm mơ màng, thình lình bắt cứng mình cứng mẩy, dường như bị vật gì đè. Người ta nói, ấy là tại cái cây mình dùng làm cột, buổi còn đứng trên rừng, có con chim gì tha thịt thú vật để trên ấy mà ăn, cho nên nó hóa ma.” Hóa ra đúng “mộc” là thứ “ma cây” thực. Và, cái chúng ta bây giờ quen gọi là “bóng đè” thì xưa được gọi là “mộc đè”. (Xem thêm trong “Từ điển Annam – Latinh” năm của J.L. Taberd, năm 1838, mục từ Mộc, cũng có cụm “Mộc đè”, giải nghĩa là: pressio nocturna – cũng tức là bóng đè, tuy nhiên không giảng kỹ như Huỳnh Tịnh Của).

Bây giờ, trở lại với câu đối “CON MỘC TỰA GỐC BÀNG NHÒM NHÀ BẢNG NHỠN” của trạng Quỳnh, có lẽ chúng ta đã thấy hết cái lý thú trong đó: ngoài “ngón” chơi chữ chiết tự đã nói ở trên, thì việc đem “con (ma) Mộc” đối với “thằng Quỷ” - mà hầu hết các sách chẳng giải thích - đích thực là “chọi nhau chan chát”.

Tiếc rằng đến nay, “con Mộc” gần như đã vắng bóng trong hầu hết các từ điển, còn “cái mộc” tuy có được ghi nhận, nhưng việc sử dụng trong nói, và viết cũng đều vô cùng hãn hữu.

Nhân đây, xin gửi các bạn hình vẽ khiên và mộc trong sách “Hiểu biết về Việt Nam” của Pierre Huard và Maurice Durand, trong đó trên mặt trước tấm mộc quả nhiên có chữ “Lực” () - n chng cho điu mà thy phù thy nói trong tích trò Phù thy s ma trên. Và hình v Cái Khiên mây cũng như hình Tp mc trong tp sách K thut ca người An Nam”.

(26,27 Mộc; 28,29 Khiên -
Hình trong sách "Hiểu biết về Việt Nam)

(Tập Mộc)
(Cái Khiên Mây)

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

CON CỪU MERINO - Hồng Kha (TQ)


Rất huênh hoang, chẳng thèm nhìn một ai, đại đội trưởng mời thuốc gã, gã cũng chỉ quay sang đại đội trưởng gật gật đầu, rồi hút thuốc. Động tác hút thuốc của gã khiến người ta nghĩ đến những con cừu ấy. Có mười lăm con tất cả. Đám phụ nữ lùa lũ cừu xuống sông Khuê Đồn, tắm rửa thật sạch, y như giặt những con thú bông của họ. Tất cả lũ cừu đều béo tốt, trắng muốt và sạch sẽ, đứng im lìm trong vạt rừng cây. Gã đồ tể hút điếu thuốc “Hồng Tuyết Liên”, con mắt chăm chăm nhìn những con cừu trong vạt rừng. Những con cừu mới trắng làm sao, bông làm sao, chúng không chạy, cũng không náo động, im lìm đứng lặng trong vạt rừng, giống như một đám mây trắng được neo chặt lại trên đầu ngọn cây. Đồ tể hút hết điếu này đến điếu khác, toàn thuốc “Hồng Tuyết Liên” hảo hạng. Có người đã nhìn xem những đầu mẩu thuốc vứt trên mặt đất, chỉ còn lại những đầu lọc vàng vàng. Ai cũng biết, đây là một tay dữ dằn.

Đồ tể đập đập tay đứng dậy, nheo mắt nhìn về phía mọi người. Tất cả mọi người cùng a lên trong lòng, cuối cùng gã cũng đã nhìn người ta một cách đàng hoàng rồi. Đồ tể cứ chăm chăm nhìn vào lũ cừu mà gã phải giết thịt như thế, bây giờ đã đến lúc gã phải động thủ làm thịt cừu rồi, thì gã lại nhìn mọi người như thế. Trông cái miệng gã xem, bị bộ râu đen xì trùm lên, giống như một cục đá trong bụi cỏ. Những kẻ sinh ra có kiểu miệng như vậy ắt sẽ làm đồ tể.

Đồ tể đi đến trước mặt những con cừu, lũ cừu nhất loạt ngẩng đầu lên, đồng thanh “mê mê” kêu toáng. Đồ tể tựa như tổng thống một nước lớn đến thăm, từ lâu đã quen với bản nhạc được tạo nên từ những âm thanh bi ai ấy. Chỉ cần liếc mắt gã đã nhận ra ngay con cừu đầu đàn, không chút khách sáo tóm ngay lấy nó xách lên, giống như một người xách cái túi của mình khi ra khỏi nhà. Đồ tể xách con cừu đến cái bàn thấp trên bãi, vung một dao, cái đầu cừu vẫn xách trên tay, còn mình con cừu đã nằm ngay đơ dưới bàn mổ thịt. Gã ta vứt cái đầu cừu xuống, tóm lấy chân sau con cừu, lấy mũi dao rạch nhẹ, da cừu bèn mở ra một đường, cùng một tiếng roạt trầm đục. Mũi dao đi từ gót chân lên đến trên đùi. Rồi lại dùng lực, đi một đường từ bụng lên đến cổ, vậy là toàn thân con cừu đã được mở ra. Đồ tể quay đầu lại, lại bắt đầu từ cái đùi . Đây là một việc cần sự tỉ mỉ, đồ tể toàn thân rạp xuống, phủ lên toàn bộ mặt bàn mổ thịt. Mũi dao vừa nhẹ vừa nhanh, da cừu phát ra những tiếng soàn soạt, giống như tiếng xé vải. Mũi dao như một cái còi, vang lên trong tay đồ tể. Có người kêu lên: Ôi, cừu xong hẳn rồi! Người ấy chỉ kêu một tiếng như thế liền im bặt. Tiếng vang trên lưỡi dao đã hút hồn anh ta cũng như tất cả mọi người. Lưỡi dao kêu càng hân hoan, gấp gáp hơn, nó tiến vào chỗ hông con cừu, phát ra những tiếng ào ào như cá nhảy xuống nước sâu. Cuối cùng, lưỡi dao chạy qua bẹn, tiến vào vùng bụng cừu rộng rãi. Đồ tể đưa mấy động tác soạt soạt mạnh mẽ, tay kia kéo mạnh, roạt một cái, toàn bộ thân thể con cừu đã bị lột ra. Đồ tể hơi di chuyển bước chân, kéo ra hai bên tả hữu, lưỡi dao loang loáng bên trái, bên phải, càng bay càng nhanh, toàn bộ thân cừu phát ra những kêu lớn rào rào như mưa, tựa như có hai cây đàn piano đang diễn tấu trong đó.

Cánh phụ nữ không dám xem đồ tể thịt cừu, họ lấp vào chỗ vạt rừng bên kia làm việc, nghe thấy tiếng da cừu soàn soạt rào rào lột ra, họ đều hơi lặng người đi, chẳng ai đừng được không quay lại nhìn gã bặm trợn ấy lột da cừu. Họ không ngờ rằng con cừu đã mất đầu rồi, lại phát ra một bản nhạc kỳ diệu như thế. Họ chạy vào trong vạt rừng, đứng ngây ra một chỗ cùng với lũ cừu còn sống, không ngừng vuốt ve đầu chúng, ôm lấy cổ chúng. Những con cừu biết kêu “mê mê”, còn họ không biết. Họ biết nói chuyện, nhưng nói gì đây? Nói gì thì lũ cừu nghe cũng không hiểu.

Đồ tể lại bước đến phía ấy, gương mặt như được tạc bằng đá không biểu lộ chút biểu cảm gì, cánh đàn bà và lũ cừu đều im thin thít, khuôn mặt bằng đá không chút biểu cảm ấy của gã khiến họ chết lặng. Không biết đôi mắt đồ tể đang nhìn vào chỗ nào, song đôi chân của gã đang bước đến phía này. Gã không cầm dao, chỉ hai tay không, cứ như đến làm bạn với lũ cừu, nhưng đám phụ nữ thì biết đây là một nhân vật ghê gớm. Kẻ ghê gớm làm việc bao giờ cũng không vội, không chậm, không để lộ vẻ gì, nhưng đã làm xong việc rồi. Đại đội trưởng kêu bảo: “Anh có cần giúp một tay không?” Đồ tể xua tay, ngăn đại đội trưởng lại. Trung đoàn trưởng cũng ngăn đại đội trưởng lại như thế. Tay của trung đoàn trưởng giống như điều khiển từ xa, chỉ đại đội trưởng một cái là đại đội trưởng lập tức dừng lại ở một chương trình nào đó.

Đồ tể thuận tay kéo một cái, lập tức một con cừu bay bay lướt theo gã đi. Đồ tể vứt nó lên trên bàn, nó cũng chỉ như một khối bông trắng, mềm nhũn một đống trên bàn, không hề động đậy chút nào. Trên mình con cừu cứ y như có một cái khóa kéo, mà đồ tể chỉ cần kéo một cái là mở bung ra. Đồ tể chỉ có một mình, còn cừu thì cả một đàn, đồ tể muốn khiến mỗi con cừu đều phải phát ra tiếng kêu của chính mình. Cừu ăn nhiều cỏ như vậy, nhưng chỉ biết kêu mê mê, song đồ tể cho chúng một lưỡi dao, thì lại có thể khai quật được ra tiếng nhạc từ trong tận da thịt của chúng. 

Đó là tay đồ tể không hề tầm thường, gã không cần người giúp sức, ngay cả việc lôi lũ cừu ra cũng không cần người khác phải nhúng tay vào. Gã đi lại chỗ đàn cừu là tiếng nhạc trên thân thể lũ cừu liền vang lên. Con mắt ti hí của gã còn nhanh hơn cả dao, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn, ánh mắt của gã đã lướt nhìn thấu khắp trong ngoài lũ cừu rồi. Đến khi gã đưa mũi dao xẻ tới, thì chẳng khác gì bước vào nhà mình, đường quen lối tỏ, đến một cái xoay người cũng không cần, ngay cả cừu cũng không ngờ rằng đồ tể lại hiểu rõ về nó như thế, còn hiểu rõ về cái thân thể đẹp đẽ của nó hơn cả chính nó.

Lũ cừu đã hoàn toàn tan rã rồi, hoàn toàn sụp đổ rồi, khi gã đồ tể bước lại, miệng chúng không còn phát ra âm thanh gì nữa, nước mắt đầm đìa nhìn vào gã đồ tể. Cánh phụ nữ mỗi người ôm một con cừu, nhưng đồ tể chẳng thèm nhìn vào họ, gã gỡ tay họ ra khỏi con cừu giống như người ta gỡ những sợi thừng khỏi thân cây.

Có một con cừu, khi gã đồ tể ấn nó xuống bàn mổ thịt, nó đã nhảy ngay xuống, quỳ mọp trước mặt gã. Mọi người đều há mồm trợn mắt. Những tay đồ tể khác, khi gặp phải tình huống như thế, ắt hẳn đã vứt dao xuống, lặng lẽ rời đi, đổi sang làm nghề khác. Thế nhưng con cừu thông minh tuyệt đỉnh ấy nhìn đến lồi cả mắt ra, mà gã đồ tể này cũng chỉ ngây ra giây lát, là lấy lại tinh thần ngay. Đồ tể tuyệt không lay động, gã phải làm bằng xong việc, rồi đến cả bàn mổ thịt gã cũng không cần nữa, lưỡi dao đưa một vòng tròn, con cừu đã đầu lăn sang một bên, thân đổ sang một phía, đùi trái gã ta đỏ loe một đám. Gã đồ tể đặc biệt tỉ mỉ với con cừu ấy, động tác chậm lại hẳn, tiếng dao vang lên vừa nhỏ vừa dài, giống như tiếng vĩ cầm, đậm đà phong vị trữ tình. Đồ tể và con dao của gã hạ xuống hết nhát này đến nhát khác, mỗi nhát dao hạ xuống đều là một tuyệt kỹ trong việc sát sinh của gã, đều là một tiếng nhạc trời, lưỡi dao ấy tựa hồ như dạo chơi giữa bầu trời và lòng đất, khi tấm da cừu được lột ra hoàn toàn, tiếng nhạc du dương giữa khoảng đất trời, trong khoảnh khắc đã tuôn tràn ra từ thân thể trần trụi của con cừu.

(Minh họa của HS Công Quốc Hà)


Đồ tể châm một điếu thuốc, rít mạnh mấy hơi, gã đã hoàn toàn được giải thoát khỏi thân thể bi tráng của con cừu. Mấy ông bộ đội phục viên lớn tuổi cũng không thể không thừa nhận, đó là một tay táo tợn. Đồ tể phì một cái nhổ đầu mẩu thuốc lá xuống đất, di tắt, rồi tiếp tục xử lý nốt mấy con cừu cuối cùng. Công việc thu dọn nốt, lại càng nhanh càng mạnh, lưỡi dao loang loáng như chớp, những luồng sáng trắng lóa qua lại trên thân con cừu một chốc, thì nó đã biến thành một khối thịt tươi hồng sạch sẽ.

Đồ tể ý chừng vẫn chưa xong, gã vẫn còn tiếp tục đi lại phía vạt rừng. Trong vạt rừng là đám con gái đang hơ hớ. Mọi người cười rộ: “Gã say máu rồi, gã muốn lôi mấy cô ả ra khai đao đây.”

Trong vạt rừng vẫn còn một con cừu, đứng nấp giữa đám con gái. Đồ tể nét mặt hơi cười đi lại, gã không muốn gây chuyện với đàn bà.

Con cừu ấy đã tự đi ra. Sở dĩ nó bị tụt lại sau cùng, là vì nó bé nhất. Một nguyên nhân nữa là, nó không hợp đàn. Mười bốn con cừu vừa nãy là loại cừu lông mịn của Tân Cương, còn con cừu này là cừu Merino. Con cừu Merino không kêu lên ai oán, cũng không quỳ xuống, ngay cả nước mắt cũng không có. Trong mắt nó chỉ có ánh sáng, một thứ ánh sáng mịn như nhung rất nhu hòa, rất mềm mại, chợt lóe lên mấy lần với gã đồ tể, rồi nó quay người chạy đi, chạy thẳng ra khỏi vạt rừng, về phía đồng cỏ xanh.          

Mọi người vây lại định chặn bắt con cừu Merino. Đồ tể nói: “Nó đói rồi, để nó ăn no đi đã.”

Con cừu Merino xuyên qua vạt rừng và đồng lúa mạch, chạy về phía đồng cỏ phía nam. Ở cuối đồng lúa mạch, đồng cỏ chăn gia súc trải dài từ con dốc dài thoai thoải đến tận bên sông Khuê Đồn. Cừu Merino đi vào sâu trong đồng cỏ rồi thì dừng lại không di động nữa, mọi người chỉ nhìn thấy một chấm trắng nhỏ, gió thổi cỏ bạt, mới lộ ra chừng nửa thân hình của nó, cỏ vươn thẳng trở lại, sẽ chẳng nhìn thấy con cừu đâu nữa. Có người nói nhỏ: “Con cừu này bị dọa sợ chết lặng đi rồi, không còn động đậy gì nữa, chứ làm gì có con cừu nào ăn cỏ mà như thế?” Tiếng đáp lời lại lớn hơn: “Sắp chết đến nơi rồi, còn ăn được bao nhiêu nữa, nếu là anh, anh ăn được nhiều không?”

Đồ tể hút hết hai điếu thuốc “Hồng Tuyết Liên”, lúc đi gã mang cả con dao theo. Mọi người biết, gã sẽ không giết cừu trên đồng cỏ. Những người du mục trước nay không bao giờ làm thế, người Hán ở đây cũng vậy, anh tuyệt đối không thể giết gia súc trên mảnh đất nuôi sống nó. Đồ tể phải đến bên sông để giết cừu, bãi sông chỉ toàn những khối đá trắng, lột da cừu rồi, rửa sạch sẽ dưới sông, không cần mang về rửa cho lãng phí nước nữa. Nhất định là gã đồ tể đã tính toán như thế. Cứ nhìn con dao trong tay gã, giữa vạt rừng tối tăm mà còn sáng loáng như thế, cứ y như cầm cái đèn pin trong đêm tối vậy. Ra khỏi vạt rừng, ánh sáng ấy bèn trở thành một màu trắng lóa, lấp loáng dưới ánh mặt trời, giống hệt một luồng điện với điện áp cực cao, đang được một kẻ dũng mãnh cầm trên tay. Gã bước qua ruộng mạch, những hạt mạch vẫn còn chưa nảy mầm, mặt đất vừa mềm vừa mịn. Dấu chân của con cừu Merino để lại rất nhỏ, chỉ bằng cái chén uống rượu, nhưng rất sâu, có những dấu chân còn làm lộ ra những hạt mạch. Hạt mạch đã nứt nanh rồi, mặt đất vẫn còn mềm như thế, y như làn da gái trinh. Nhưng nó không phải là đất trinh nữ nữa, nó đã được khai khẩn nhiều năm rồi, đã gieo hạt hết vụ này đến vụ khác, thai nghén hết lần này đến lần khác, sinh trưởng già chín, thu hoạch cấy cày, nhưng mỗi khi lưỡi cày lật lên, nó vẫn luôn là một gương mặt trinh nữ mịn màng, mướt nhuận, tươi non. Những dấu chân cừu chẳng những không làm tổn hại ruộng mạch, mà ngược lại còn khiến cho mặt đất tỏ rõ vẻ mềm mại êm đềm mà cao quý.

Cỏ phía bên kia ruộng mạch đã được cắt sạch, lớp vỏ ngoài thân những sợi cỏ đã khô vàng, nhưng trong ruột chúng vẫn hơi xanh sậm, và còn có thể nhìn thấy những giọt nhựa sền sệt. Phân gia súc thì khô cứng đen kịt, dẫm lên rất giòn, tựa những miếng củi gỗ. Những cây cỏ cao đều mọc ở những chỗ gần bên bãi sông, nơi ấy toàn những tảng đá lớn, cỏ vươn ra từ những kẽ đá, che kín cả đá, nên những người cắt cỏ sẽ không bao giờ đi cắt ở những chỗ như vậy. Bây giờ đang là những ngày cuối cùng của mùa thu. Chỉ ở đây, gia súc mới có thể ăn được những ngọn cỏ tươi ngon. Trong màu xanh của những ngọn cỏ đã mang theo sắc vàng, lá cỏ lặng trĩu phát ra những tiếng lay động loạt soạt, giống như đang lắc một nắm len. Phân gia súc ẩn sâu trong bụi cỏ còn rất mới, tựa hồ chúng được mọc ra từ đất. Đồ tể dẫm lên một bãi phân bò, suýt nữa thì trượt ngã, gã lập tức ngửi thấy một thứ mùi đặc hữu của phân gia súc, rất giống mùi của thứ thuốc lá kém chất lượng. Bước chân của gã đồ tể bước qua những bụi cỏ phát ra tiếng roàm roạp nặng nề, mà chỉ có những đại gia súc có mồm to, lưỡi lớn, với hàm răng tổ chảng khi ăn cỏ mới có thể phát ra những âm thanh soàn soạt mạnh mẽ và chậm rãi như thế. Đồ tể đã lội trên đồng cỏ chăn gia súc bao nhiêu năm rồi, nhưng chưa từng được nghe tiếng vang động của cỏ rõ ràng như thế, cũng chưa từng bao giờ tự hào về bước chân chắc cgã có lực của mình như thế.

Gã đã nhìn thấy con cừu Merino. Gã chỉ nhìn thấy đuôi và lưng của nó, sau đó thì gã nhìn thấy một bên người, cái đầu, cổ và thân của con cừu. Con cừu vẫn chưa hề nhận ra. Cừu là một con vật nhát gan và ngờ nghệch nhất trong đám gia súc, chỉ khi anh đi đến tận trước mặt nó, nó mới kinh hoảng giật mình, rất giống những cô nàng vừa mới vào đời chưa lâu, khi đàn ông cởi quần áo họ ra, họ mới cảm thấy không hay, giây phút bất chợt hoảng loạn lên, mà miệng không thốt ra được lời nào, tay không biết phải làm gì.

Đồ tể có đôi mắt rất tinh tường, ánh mắt gã như phóng ra một thứ ánh sáng lạnh ngắt từ giữa trán, xuyên qua lớp lông xốp dày trắng muốt, di chuyển khắp bên trong xương thịt con cừu: thịt đỏ, xương trắng, gân vàng, những mạch máu xanh sậm, và phủ tạng căng đầy. Thế giới hướng tới sự trong sáng. Thiên nhãn của gã đã được mở. Đôi chân không nghe lời của gã đã đưa gã đến trước mặt con cừu Merino. Con cừu lặng im nhìn xuống cỏ, nó có cái mõm đen bóng nhẫy, nhưng nó không ăn cỏ, miệng, mũi, mắt, tai của nó đều chìm ngập trong sự tĩnh lặng toát ra từ cỏ.

Đồ tể cảm thấy đói lả, muốn hút thuốc. Nhưng cái gã hút không phải là thuốc, mà là một cọng cỏ đang kêu vang trên miệng, soàn soạt, rất giống âm thanh của lưỡi dao đang lột da cừu, rất giống tiếng gia súc hay người đang đi qua cỏ rậm. Cừu Merino là giống cừu mới, gã đã biết về chúng từ khi mới được nhân giống rồi. Đồ tể ngồi xuống, dù là một kẻ cao hơn nữa thì khi ngồi xuống cũng chỉ cao bằng con cừu mà thôi. Gã nhìn thấy hai mí mắt đặc trưng của cừu Merino: hai mí mắt xanh đen một mảng, từ trong đó tỏa ra một ánh mắt mịn như nhung, giống như nước từ đầu nguồn suối, tuôn chảy mãi rất xa, rất xa... Cừu Merino đã dùng cái ánh mắt như nước nguồn trong vắt ấy khiến cỏ xanh và đồ tể ngưng đọng lại. Gã đồ tể cảm thấy mình đã hóa thành cỏ. Người với cỏ cũng vậy, dầu cho đang tĩnh lặng nhất, cũng vẫn có một luồng xoáy đang xoay chuyển bên trong.

Bên trong người đồ tể chợt có tiếng reo vang, âm thanh rất lớn, những người đứng phía bên kia ruộng mạch cũng có thể nghe thấy. Khi gã đổ sụp xuống, hai tay và đầu gối cùng chống xuống đất, con dao cắm sâu vào cát, ngập đến lút cán. Gã nhìn lên con cừu đang đứng cao hơn mình.

Đó là một con cừu Merino Tân Cương đích thực.

Gã tựa hồ vừa mới được biết về con cừu này.     

Đồ tể bò dậy, đi ra khỏi vùng cỏ rậm, đến vạt cỏ ngắn rộng rãi, giống như một người bị đuối nước vừa lên được bờ. Gã nói với mọi người: “Đó là con cừu thần, không giết được nó.” Gã không kể cho mọi người chuyện đầu gối gã đã quỵ xuống đất thế nào, nhưng thần thái của gã là như vậy.

Trên bãi rộng toàn là người, trai gái trẻ già vui mừng náo nức. Việc mổ bụng xẻ thịt không cần đồ tể phải nhúng tay vào, mọi người đều biết việc ấy. Cánh phụ nữ thì làm lòng cừu, lũ trẻ con thì phùng má thổi căng cái bong bóng cừu để làm bóng đá, thình thịch như đánh pháo đất. Trong không khí tràn ngập một mùi tanh hoi ẩm ướt mà tươi mới. Mọi người đều thích cái mùi vị ấy, từ mùa xuân khi cỏ xanh nảy mầm cho đến cuối thu, lúa mạch, ngô, đậu, hướng dương, táo, nho đều đã thu hoạch cả rồi, nhưng cừu vẫn lớn lên trên đồng cỏ. Trong đại đội có có tới mấy ngàn con cừu, đến lúc qua mùa đông mới giết thịt chúng. Gieo lúa mạch xong, sửa sang ruộng nương đâu đấy, mọi người đã cạn mồ hôi rồi, trên mình chảy hết không còn gì nữa rồi, trước hết phải mổ mười mấy con cừu ăn lấy sức đã. Cừu cũng giống như than củi, là thứ để đối phó với cái lạnh rất tốt.

Đến nhá nhem tối, cừu đã được lọc xương hết, chia thành từng mô, mỗi nhà một mô, đem thẻ lĩnh phần. Cái gì chia thì chia, cái gì để lại thì để ở nhà ăn  đại đội để liên hoan. Mọi người hân hoan xúm lại vui đùa, anh em công nông thì vui chơi ở đại sảnh, các cán bộ thì ngồi nói chuyện phiếm trong phòng họp nhỏ.

Đồ tể cùng lãnh đạo, đại đội trưởng, ngồi một mâm. Mọi người đều chăm chú ăn, không ngẩng đầu lên, ăn đến túa mồ hôi khắp người khắp mặt. Đồ tể miếng được miếng chăng, còn chỉ là thù tiếp mọi người. Đại đội trưởng châm thuốc cho gã, thuốc là món sở thích của gã. Lúc uống rượu, có người muốn đến gặp đồ tể mời rượu, nhưng đại đội trưởng đã đưa mắt ngăn lại, chỉ để gã uống ba chén. Đồ tể có vẻ không trụ nổi nữa. Không đợi đại đội trưởng phải cất lời, cô gái trẻ bưng món đã đỡ đồ tể đi ra.

Ra đến bên ngoài, gió lạnh vừa thổi, đồ tể lại càng gục xuống hơn, đè nặng khiến cô gái thở hổn hển, giây phút khiến cả gã và cô gái cùng ngã bệt xuống. Đồ tể cười hơ hơ: “Cô là một con cừu thần, tôi bò rạp xuống không sao, chứ cô không bò như thế được.” Cô gái ngồi dậy đỡ gã lên, nhưng gã không cần: “Con dao đã biến thành cỏ rồi, tôi cũng phải biến thành một sợi cỏ, để cho cừu nhìn một chốc như thế.” Cô gái bảo: “Cừu sẽ nhìn anh cả đời.”

“Cừu chỉ nhìn tôi một cái, một cái là đủ rồi.”

Cô gái đại để không vần nổi gã đồ tể. Cô cởi áo khoác ngoài đắp lên người cho gã, rồi băng qua vạt rừng về nhà. Mặt trăng dần nhô lên từng chút một, giống như một con cừu béo tròn sáng rực, ung dung quý phái, phong thái đường đường, đi lại, thẳng tới bên mình gã đàn ông đang say ngủ ấy.

(Châu Hải Đường dịch - Văn Nghệ Quân Đội số 1035+1036/2024)           

 


 Giới thiệu tác giả:


Hồng Kha (1962 – 2018), tên thật là Dương Hoành Khoa, quê quán Thiểm Tây (Trung Quốc), ông tốt nghiệp Học viện Sư phạm thành phố Bảo Kê (Thiểm Tây) năm 1985, nguyên là hội viên Hội nhà văn Trung Quốc, Phó chủ tịch Hội nhà văn Thiểm Tây. Ông từng giành được nhiều giải thưởng văn học của Trung Quốc như Giải thưởng Văn học Phùng Mục lần thứ nhất; Giải thưởng Văn học Lỗ Tấn lần thứ 2, giải thưởng cho tiểu thuyết trường thiên lần thứ nhất của Trung Quốc tiểu thuyết Học hội. Ông để lại nhiều tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, và tản văn. Có thể kể đến như: các tập truyện ngắn như: “Núi Altai sắc vàng”; “Nhảy ngựa Thiên Sơn”; “Hoa bia dại”, “Mặt trời nảy mầm”, …; các tiểu thuyết: “Người kỵ sĩ đi về phía tây”, “Hổ! Hổ!”, “Tảng đá ho”, “Sông cái”, …; Các tập tản văn: “Dòng sông lớn giữa những ngón tay”, “Kính sợ trời xanh”, “Rực rỡ và yên lặng” …    

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2024

XUÂN ẤM - Trương Chí Minh (Trung Quốc)

 

Khu nhà họ Chân tọa lạc ở mé bắc đường lộ, qua cổng vào bên trong, là hai lớp nhà. Sân ngoài, sân trong đều theo hướng bắc nam, dài hẹp, sân ngoài có hai gian nhà đông tây, sân trong ngoài hai gian nhà đông tây còn có nhà chính. Cổng ngoài và cổng trong đều không có cửa đóng, thảy chỉ xếp chồng bằng đá xanh. Trước nhà là bậc thềm đá xanh, mặt sân cũng lát bằng đá xanh.

Ngày trước nhà họ Chân vốn là một nhà phú nông, cho nên mới có khu nhà lớn như thế.

Trong nhà khắp mọi chỗ đều làm bằng đá, hàng xóm láng giềng qua lại, lúc nào cũng cảm thấy lạnh lẽo.

Gian nhà bên đông ở sân ngoài có Triệu Hỉ ở, còn nhà chính ở sân trong có Thủy Đào và con gái cô.

Tháng Chạp trước Tết, Triệu Hỉ mới vừa đến ở đó.

Tối hôm Đông chí trước Tết, xưởng pháo trong xã phát nổ, những công nhân làm ca đêm không một ai chạy thoát được ra, chết tất cả hơn hai mươi người. Trong đó nhà họ Chân mất đến năm người: chú, thím, anh trai, chị dâu, và cả chồng của Thủy Đào.

Nhà Triệu Hỉ ở phía sau xưởng pháo, nhà cửa bị phá sập cả. Vợ Triệu Hỉ tối ấy cũng đi làm trong xưởng pháo, tất nhiên cũng chẳng sống sót.

Nhà họ Chân mất đi năm người vốn đều sinh sống ở đây chỉ trong một đêm, khu nhà họ Chân rộng lớn như thế chỉ còn lại hai mẹ con Thủy Đào.

Tháng Chạp đông hàn, năm hết tết đến tới nơi, mà Triệu Hỉ lại thành ra một thân một mình, không chốn nương thân. Triệu Hỉ vốn chơi thân với người con trai của chú thím Thủy Đào giờ đang ở trên thành phố, vì thế bèn vào ở trong gian nhà mé đông ở sân ngoài mà trước đây chú thím Thủy Đào vẫn ở.

Triệu Hỉ không có con cái, kết hôn với vợ đã bảy tám năm mà vợ vẫn chưa sinh nở gì.

Giao thừa, Tết, cho đến tận Nguyên tiêu, trong sân nhà họ Chân không có câu đối đỏ, không có đèn lồng, tất nhiên càng không có tiếng pháo nổ. Một cái tết đi qua buồn tẻ nhạt nhòa, im lìm lặng lẽ.  

Chẳng phải chỉ có một sân nhà họ Chân, mà cả cái thôn Hồ Gia Kiều này vẫn còn chìm lặng mãi vào trong tiếng nổ kinh tâm động phách tối hôm đó, chưa thể hoàn hồn nổi.

Qua tiết Thanh minh ruột gan đứt đoạn, mưa lạnh đìu hiu ấy, một hôm, bỗng có một đôi én chợt đến ngậm bùn đắp tổ ở dưới mái hiên phía trên cửa sổ của gian nhà mé đông.

Đôi én bay ra bay vào, bộ dạng bận rộn hân hoan, khiến không khí nặng nề trong sân nhà họ Chân chợt trở nên có sức sống hơn.

(Tranh của Ngô Quán Trung - T.Q)


Ban ngày, lúc Triệu Hỉ ra ngoài đi làm, Thủy Đào suốt mấy tháng nay ngày ngày chỉ buồn bã ở trong nhà lại nhẹ nhàng nhón bước, ra khỏi lớp cửa trong, nấp ở phía sau, lặng lẽ ngây ra nhìn ngắm cái tổ én dưới mái hiên suốt hồi lâu.

Thôn Hồ Gia Kiều này, trong thôn ngoài thôn chỗ nào cũng sẵn nước, sẵn bùn, sẵn cỏ, cái tổ én đẹp đẽ chả mấy đã được xây xong dưới mái hiên gian nhà mé đông của Triệu Hỉ.

Rồi một hôm, trong cái tổ én dưới mái hiên ấy đã thấy có tiếng đòi ăn lích cha lích chích của lũ én con. Én lớn én nhỏ cùng hòa nhau, con kêu con hót, khiến khoảng sân vốn đau buồn, lạnh lẽo suốt một đông một xuân của nhà họ Chân đã có lại được sinh khí, cũng khiến trái tim ngưng trệ như nước đọng ao tù của Thủy Đào hoạt bát lên một chút.

Tối hôm ấy, đêm đã rất khuya, Thủy Đào vốn mất ngủ đã mấy tháng, dường như nghe thấy có tiếng mèo kêu, liền sau đó tựa hồ loáng thoáng nghe có một tiếng kêu của con chim én lớn.

Thủy Đào nhỏm người ngồi dậy, định khoác áo xỏ giày. Lập tức nhớ ra, cái tổ én ấy ở bên ngoài cửa sổ buồng Triệu Hỉ, Thủy Đào vội đứng dừng lại ở bên giường, chậm rãi cởi giày ra.      

Tất nhiên, Thủy Đào vẫn lo sợ.

Ngồi ở bên giường đến dăm ba phút, Thủy Đào lại xỏ lại chân vào giày, đi ra trước cửa sổ. Đứng bên cửa sổ lại bảy tám phút đồng hồ nữa, rốt cùng cô không thể nào an tâm nổi, nhẹ nhàng mở cửa, nhón chân, đi ra sân ngoài.

Ra khỏi lớp cửa ngăn với sân ngoài, dưới ánh trăng nhàn nhạt, đã nhìn thấy ngay khuôn cửa sổ gian nhà Triệu Hỉ ở. Thủy Đào vẫn còn nghi ngại, lại đứng dừng lại bốn năm phút, tận đến khi loáng thoáng có tiếng lịch bịch từ chỗ tổ én vẳng lại, cuối cùng mới không cần quan tâm gì nữa, quyết định lại gần xem xét cho rõ ràng.

Ai ngờ, cô vừa mới đến gần cửa nhà phía đông, thì Triệu Hỉ bỗng nhiên mở cửa, bước một chân ra.

Khoảnh khắc hai người cùng đứng sững lại đó, tiến chẳng xong, lui chẳng được. Dưới ánh trăng lờ mờ ai nấy cùng chôn chân tại chỗ.

Nửa phút sau, Thủy Đào mới lí nhí nói: “Hình như tôi nghe thấy có tiếng mèo đến, tôi không yên tâm lũ én con, định xem xem …”

Triệu Hỉ tựa hồ cũng được cởi trói, vội bảo: “Vâng, tôi cũng nghe thấy thế, tôi cũng định …”

Hai người lại cùng im lặng, lại đứng như trời trồng ở đó.

Lại nửa phút sau, Triệu Hỉ mới nói: “Để tôi mang cái thang lại, trèo lên xem xem.”

Triệu Hỉ đi sang hiên nhà bên tây lấy cái thang cũ đã hơi mục đến, còn Thủy Đào vẫn đứng tại chỗ.

Triệu Hỉ dựng cái thang tựa vào trước cửa sổ, lại vào buồng lấy cái đèn pin ra, định trèo lên. Thủy Đào lại hơi do dự, chỉ chỉ vào dưới chân thang nhắc bảo: “Xem xem, đã chắc chưa?”

Triệu Hỉ cầm đèn pin soi soi xuống dưới, lay lay cái thang, rồi nhanh nhẹn trèo lên. Thủy Đào không đừng được lại dặn dò: “Nhẹ nhàng thôi … chớ làm chúng sợ!”

Chỉ là lo hão.

Vì thế, cô vội vã quay người đi vào sân trong. Anh cũng nhẹ nhàng đem trả cái thang về chỗ cũ.

Ai nấy về buồng của mình.

Đến lúc trời mờ sáng, Thủy Đào cảm thấy mình mẩy hơi không được khỏe, căn bệnh phong hàn đeo bám cô lâu nay tựa hồ lại quay trở lại.

Sáng sau trở dậy, trời u ám, gió nổi lên. Lúc buổi trưa, gió trở mạnh hơn, một cơn gió lốc cuộn đến chỗ tổ én dưới mái hiên nhà bên đông, cuốn một con én con vừa mọc lông nhung đang đứng trên vách tổ én nghển cổ đợi mẹ rơi xuống đất, kinh hãi chíp chíp chíp hốt hoảng kêu vang.

Thủy Đào nghe thấy tiếng kêu vội vàng chạy ra. Triệu Hỉ đi ra ngoài không có ở nhà, nên cô chỉ còn cách tự vác cái thang đến, nhẹ nhàng cầm con én con trong lòng bàn tay, đang chuẩn bị trèo lên thang thì vừa vặn Triệu Hỉ từ ngoài cửa bước vào.

“Để tôi! Để đấy tôi!” Triệu Hỉ bỏ cái cuốc chạy tới.

Lửng chiều, trong làn gió ấm áp bắt đầu lay phay vài sợi mưa mát lạnh, tí ta tí tách, vấn vít tâm can.

Trong cơn mưa xuân miên man, đã đến xẩm tối lúc lũ trẻ đã tan học về nhà. Suốt mấy ngày phải nằm trong buồng vì ho, Thủy Đào cảm thấy toàn thân không còn sức lực nữa, cô nặng nhọc bước xuống giường, cầm lấy ô, loạng choạng chuẩn bị đến trường đón con. Từ trước Tết, sau khi xảy ra việc bất hạnh với mọi người trong nhà, cô bắt đầu phải đưa đón con đi học hàng ngày.

Triệu Hỉ từ nhà phía đông đi ra, nhìn Thủy Đào như cây dương liễu lung lay trước gió, bước lại giành lấy cái ô trong tay cô, nói: “Cô vào nhà đi, để tôi đi cho!”

Triệu Hỉ cầm ô, bước vào giữa những sợi mưa trên đường. Thủy Đào trông thấy trong cái nồi của Triệu Hỉ ở dưới mái hiên, nước đang cuồn cuộn cuồn cuộn sôi. Cô đứng ở cửa, ngần ngừ một lát, rồi mới bước vào trong gian nhà của anh.

Trong buồng rất tối, trống hơ trống hoác, phảng phất một mùi vị của cánh đàn ông làm ruộng. Lượn quanh hai vòng, Thủy Đào cũng không tìm thấy bột mì của Triệu Hỉ ở đâu.

Thế là cô vội vã lui ra, đi về buồng mình, xúc lấy một ít bột ngô, rồi lại vội vã trở lại, bỏ vào nồi nấu cho Triệu Hỉ.

Mưa xuân nghiêng nghiêng gõ vang lên những tiếng tinh tinh tang tang trên nền đá xanh trong sân. Trong chiếc nồi của Triệu Hỉ cũng tỏa ra làn khói trắng thơm nức hương ngô. Thủy Đào cầm muôi quấy thật kỹ bột trong nồi, đậy vung cẩn thận, lại đứng một chốc, rồi mới yên tâm quay vào sân trong.

Một làn gió xuân, kéo một vệt mưa xuân rắc lên đầu, lên mặt, lên người Thủy Đào, cô mới cảm chợt thấy hơi lạnh trong người. Thủy Đào thầm nghĩ – Có nhẽ cơn sốt lúc ban ngày vẫn còn chưa dứt hẳn!

(Châu Hải Đường dịch - Báo Văn nghệ, số 10/2024)