Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2025

SAU CUỘC RƯỢU - Lăng Thúc Hoa (Trung Quốc)

 Đêm khuya, khách khứa đã về hết. Trên chiếc ghế bành lớn giữa phòng khách, một người đàn ông chừng hơn ba mươi tuổi đã say mềm, đang ngủ say sưa. Một đôi vợ chồng trẻ, mặt ai cũng đỏ hồng vì hơi rượu, ngồi bên lò sưởi, thì thầm tâm sự. Cả căn phòng tràn ngập một bầu không khí yên tĩnh ngọt ngào. Người vợ bỗng nhiên đứng dậy nói: “Chúng mình sơ ý quá, Tử Nghi nằm đây ngủ mà không lấy cái gì đắp cho anh ấy. Đợi em lấy tấm chăn chiên để anh đắp cho anh ấy. Anh tắt hết đèn điện ở bên kia đi, cho anh ấy khỏi chói mắt, ngủ không thoải mái.”

“Để anh đi lấy cho.” – Người đàn ông vội vàng đứng lên nói.

Người vợ trẻ không đáp lời, nhanh chóng quay lưng đi ôm tấm chăn lại, bảo:

“Anh nhẹ tay cởi cho anh ấy đôi giày ra đi. Rồi tung chăn đắp lên cho anh ấy từ vai đến chân, để anh ấy ngủ cho ngon.” Cô nhìn chồng mình cởi giày, đắp chăn cẩn thận cho người đàn ông đang ngủ ấy, rồi lại bảo: “Chúng ta cứ ngồi lại ở đây thôi. Lát nữa anh ấy tỉnh dậy nhất định muốn uống trà, uống nước. Vừa nãy anh ấy nói, anh ấy không về nhà, cái ghế bành ở đây còn thoải mái hơn cái giường ở nhà anh ấy nhiều.” - Cô nói rồi lại ngồi xuống – “Ôi chao! Gia đình anh ấy thật chẳng ra làm sao, anh ấy đáng thương thực.”

Người đàn ông vẫn ngồi tựa vào vợ mình, trong phòng  chỉ còn lại một bóng đèn chụp nhỏ, rất tối; Lửa trong lò sưởi sát tường tỏa ra một thứ ánh sáng màu đỏ cam êm ái soi lên gương mặt hai người. Chậu mai đặt trên kỷ nhờ hơi  ấm trong nhà đã nở rộ, tỏa hương thơm ngát ngọt nào. Người đàn ông ấy ngắm nhìn vợ mình, rồi nheo mắt cười bảo:

“Thái Thiều, anh  cũng say rồi.”

“Chẳng phải anh nói là mình uống không bao nhiêu à?” – Người vợ mỉm cười nói.

“Anh không phải là say rượu, mà là say vì khung cảnh này cơ … Cả mắt, mũi, tai, miệng, cho đến linh hồn anh đều say rồi … Trái tim anh lại càng say. Em sờ thử xem, xem nó đang đập nhanh thế nào!” – Anh vừa nói vừa ngồi sát vào bên cạnh Thái Thiều.

Thái Thiều quay sang nhìn anh ta nửa như cười, nửa như không, rồi lại quay sang nhìn người đang say ngủ, nói: “Anh lại còn không chịu nhận là đã uống say nữa. Anh thử nghe xem chính mình đã đem hết cả tai, mũi, miệng, mắt, linh hồn, trái tim mình mà phô ra rồi đấy. Chỉ là mặt anh không đỏ như Tử Nghi thôi.  Anh ấy hôm nay đúng là say thật rồi!”

Người đàn ông tựa như không nghe thấy vợ mình nói gì, vẫn cứ nheo đôi mắt say,  kéo tay cô, nói: “Em thân yêu, làm sao anh có thể không say khắp toàn thân được? Một con người thế này, một đêm tốt lành thế này, một căn nhà đẹp đẽ bình yên thế này, đều khiến anh thưởng thức được! Bình thường, được ngồi trong một căn phòng đẹp đẽ thư thái như thế này, ngắm nhìn từng món từng món đồ vật đều do ý trung nhân của mình bố trí sắp đặt, đã khiến anh say đắm trong lòng rồi, trông thấy em từ xa đi lại, trái tim anh đã lay động không thể làm chủ nổi nữa rồi. Bây giờ, ngồi ngay trước mắt anh là một nàng tiên nữ, nơi anh đang ở là một cung điện tuyệt trần, tai anh được nghe tiếng nhã nhạc của tâm hồn, mũi anh được ngửi mùi hương ngào ngạt đến tiêu hồn, đừng nói là hương thơm của hoa mai, hoa hồng không thể sánh được, mà đến mùi hương của hoa sen nếu đem so, cũng còn hiềm là lẫn chút hơi đắng của lá sen cơ đấy. Còn miệng  anh, nó vừa mới được nếm những hương  vị ngon lành mà người trong lòng của anh đặc biệt để tâm làm ra – Ôi, anh còn có thể được nếm cái mùi vị tựa như hương hoa mà chẳng phải hương hoa, tựa như mật ngọt mà chẳng phải mật ngọt, tựa như rượu thơm mà chẳng phải …”

“Đủ rồi, đủ rồi! Anh say thật rồi. Lại còn đem những câu sến súa ấy ra trêu chọc em nữa. Anh nói nho nhỏ thôi, kẻo lại đánh thức Tử Nghi dậy đấy.”

Người đàn ông cầm bàn tay vợ mình lên ra sức hôn hít, rồi lại ngẩng đầu nhìn cô nói: “Em cũng hơi say rồi hả? Sắc hồng trên má em, có loài hoa nào có thể sánh được với màu sắc khả ái  ấy? Hoa đào ư? E là thô tục quá. Mẫu đơn ư? Diễm lệ  quá! Hoa cúc ư? Lạnh nùng quá! Hoa mai ư? Lại gầy quá. Tất cả đều chẳng thể so được.” – Vừa nói anh ta vừa ngồi sát lại gần hơn một chút – “Ôi! Không cần phải nói đến cái gì khác, chỉ cần nói về đôi nét mi này thôi, có cái gì sánh nổi đây? Đem sắc núi xa mà so, anh e là nó nhạt quá; Mày ngài - cong quá, lá liễu - thẳng quá, trăng non - lạnh quá.  Đều chẳng phải, đều chẳng phải! Vẻ đẹp của đôi mày, thật chẳng kém gì vẻ đẹp của đôi mắt, làm sao người ta thường lại không nhắc đến đôi mày nhỉ?”

Tối nay, Thái Thiều dường như không giống như bình thường, bao nhiêu lời của Vĩnh Chương – chồng cô – nói, cô đều uống cạn từng từ từng từ vào trong tâm khảm mình. Mắt cô liên tục ngó nhìn sang người đang nằm ngủ bên kia, đến lúc này mới ngắt lời Vĩnh Chương, nói: “Tối nay, đầu em cũng hơi quay cuồng … Em uống rượu rồi không thích nói nhiều, anh thì cứ thao thao bất tuyệt như thế mà không thấy khát à?”

Vĩnh Chương  vẫn chưa hết niềm cảm hứng, lắc lắc đầu lại tiếp tục nói:

“Thái Thiều, anh nói thật đấy, vẻ đẹp của làn mi cũng rất quan trọng nhé. Thế nhưng, thường khi mới gặp mặt, người ta không nhìn thấy vẻ xấu đẹp của làn mi. Cái này phải vào lúc đối diện với nhau trong đêm yên tĩnh mới cảm nhận được. Ôi, làn mi của em, thật sự là đẹp đến kỳ lạ!”

“Vĩnh Chương, em mặc kệ anh đấy, anh toàn lôi em ra mà trêu đùa thôi.” Cô hơi nhún vai, nói, rồi quay mình, xây lưng lại phía Vĩnh Chương. 

“Anh nào dám!” – anh ta vội vàng phân bua, rồi đưa tay nhè nhẹ xoay Thái Thiều quay lại – “Là anh đang ca ngợi tạo hóa đã đưa một nàng tiên nữ thế này hạ phàm để cho anh cung  phụng thân gần, anh thực tâm cung phụng còn không đủ, chứ đâu dám đùa bỡn … Anh tin là, một người có vẻ bề ngoài thực sự đẹp, thì tâm hồn nhất định cũng sẽ đẹp. Ví như tâm hồn của em, nào có lúc nào không đem lại niềm vui cho anh, khiến anh phải ca tụng. Cứ lấy căn buồng này mà nói, có cái gì không phải qua bàn tay em đụng vào thì mới được mọi người khen ngợi đâu? Giả sử có ai đó đem ngôi vua đến xin đổi, thì đừng nói là người yêu này của anh, mà ngay cả một đồ vật nào trong căn nhà này, anh nhất định cũng tống gã vào nhà thương điên.”

Dáng vẻ Thái Thiều lúc này tựa hồ như nghe mà chẳng thấy, với dáng vẻ có một chút hơi men, cô tựa đầu mình vào vai  Vĩnh Chương, nhìn sang người đang ngủ bên kia. Vĩnh Chương vẫn tiếp tục nói: “Ôi, ba ngày nữa là năm mới rồi, anh có thể kính dâng em một chút gì nhỉ? Em đã trao cho anh bao nhiêu vinh quang và hạnh phúc, dẫu có nói hết cả một đêm hôm nay cũng chẳng nói hết được một phần trăm. Em thân yêu, hãy mau nói cho anh biết, em muốn có cái gì? Không cần phải tiếc tiền. Cái gì mà em muốn, là anh sẽ rất vui sướng được chi tiền.”

Thái Thiều nghe xong, ngẫm nghĩ một chút, sau đó vẫn nhìn ngóng sang người đang nằm ngủ. Lúc này, Tử Nghi đang ngủ say sưa, hai má đỏ hồng tựa như được đánh phấn. Đôi mắt đầy những suy tư thần bí đang khép hờ đầy thư thái. Đôi mày đen nhánh, vươn thẳng về hai bên tóc mai rất rõ nét. Khóe miệng anh, thường ngày luôn tuôn tràn những lời nghị luận và những câu hài hước, bây giờ đang cong cong khép lại nhẹ nhàng, bên má tươi tắn mang theo một nét cười êm. Dáng điệu ấy, thường ngày Thái Thiều thực sự chưa từng được thấy qua. Bình thường, dung nghi của anh đều vô cùng kính cẩn nho nhã, chứ không hề có vẻ đẹp đẽ ấm nhuần như sau khi say rượu thế này. Thái Thiều lặng lẽ ngây nhìn hồi lâu, khuôn mặt bỗng nhiên nóng bừng. Cô đáp lời Vĩnh Chương:

“Em chẳng cần gì cả, em chỉ muốn anh bằng lòng cho với em một thứ … chỉ cần một giây thôi.”

“Em mau nói đi,” – Vĩnh Chương nói, vẻ rất hào hứng – “Tất cả mọi thứ của anh đều là của em. Đừng nói là một giây, mà cả ngàn vạn năm cũng được.”

“Em muốn … Nói ra em hơi ngại.”

“Em đừng lo.”

“Anh ấy …”

“Anh ấy nhất định chưa tỉnh đâu, em cứ yên tâm nói đi.”

“Em, em chỉ muốn hôn một cái lên má anh ấy, anh có cho phép không?”

“Thật ư, Thái Thiều?”

“Thật! Đúng là thế đấy!”

“Thật à? Như thế sao được? … Tối nay em cũng uống say rồi phải không?”

“Không có say, em không có say. Em kể cho anh nghe, vì sao em lại nảy ra đề nghị như thế, thì anh sẽ phải bằng lòng với em nhé. Từ khi em quen biết với Tử Nghi em đã vô cùng khâm phục anh ấy. Cử chỉ dáng vẻ của anh ấy, nói năng văn chương của anh ấy, cách anh ấy đối đãi với mọi người mọi việc, đều luôn khiến em yêu mến. Chỉ bởi vì anh ấy là người đã có vợ, nên em vĩnh viễn không dám thổ lộ ra nửa câu nào tỏ ý ái mộ anh ấy cả. Nhưng anh ấy lại phải ở trong một gia đình rất không như ý, nên em rất thương cảm cho anh ấy.”

“Anh ấy cũng rất khen ngợi em với anh, và rất mến mộ anh. Nhưng vì người mến mộ anh nhiều quá, nên anh cũng không để ý. Anh cũng biết rằng em rất khâm phục anh ấy, nhưng anh không biết em lại yêu mến anh ấy như thế.”

“Nhỏ tiếng thôi. Để em nói xong tâm sự của mình đã. Em bẩm sinh ra đã có một cái tính cách kỳ lạ là rất yêu thích bút mực văn chương, anh biết rồi đấy, mỗi khi được thấy những văn chương thập phần kỳ diệu, là đều nghĩ đến phong thái dung nghi của tác giả. Văn chương bút mực tuy đẹp đẽ đấy, nhưng phong thái, nói năng của người viết lại không nhất định đã đẹp đẽ. Chỉ có anh ấy là thực sự khiến em phải yêu mến thôi. Ôi, mặt nào của anh ấy cũng đều tốt cả! … Trước nay em chưa từng dám nói ra câu này với ai, e là kẻ tục nhân sẽ hiểu lầm. Hôm nay, nói năng dáng vẻ của anh ấy sau khi rượu say lại càng khiến em say đắm trong lòng. Em nghĩ đến tình cảnh phiền muộn trong nhà anh ấy  - một người vợ không hề có chút tình cảm nào, những ông chú bà thím không hề quan tâm đến gì khác ngoài việc ngửa tay xin tiền, thì lại không khỏi động lòng thương xót vô cùng. … Anh ấy thật đáng thương! …  Anh thân yêu, anh ấy là một người cao thượng tốt đẹp như thế mà không có ai thương yêu anh ấy, thì thật là một điều đáng tiếc!” 

“Ờ! Vì thế nên nên em muốn đến kiss[1] anh ấy hả Thái Thiều?”

“À, cũng bởi vì khi nãy, em càng nhìn anh ấy, càng động lòng thương mến vô cùng không thể ngăn lại được, nên em mới cảm thấy khó chịu nổi, nếu em không thể biểu lộ ra.” Cô túm chặt lấy tay Vĩnh Chương nói – “Anh nhất định phải bằng lòng với  em.”

Nét mặt Vĩnh Chương lộ rõ vẻ khó xử, nhưng vẫn mỉm cười nói:

“Thái Thiều, em hãy nghĩ một yêu cầu khác có được không? Anh không thể bằng lòng cho em …” Thái Thiều không đợi Vĩnh Chương nói xong, liền ngắt lời anh:

“Em tin anh là người yêu em nhất,  làm sao anh lại rốt không thể đồng ý với yêu cầu ấy của em? … Ngay cả Tử Nghi, anh cũng vô cùng yêu quý anh ấy cơ mà …”

“Em yêu, em đúng là đã uống say rồi. Tình yêu đương vợ chồng, với tình yêu thương bè bạn không hề giống nhau! Có điều, anh cũng không hiểu, vì sao anh rất thích em cũng yêu quý bạn bè của anh giống như anh, nhưng anh không thể cho phép em hôn anh ấy được.” Vĩnh Chương vội vàng phân trần.

“Em không có uống say, không say thật mà!” – Thái Thiều nói gấp gáp – “Anh phải bằng lòng cho em. Chỉ cần một giây đồng hồ kiss anh ấy thôi, là em thoải mái trong lòng rồi. Lẽ nào anh lại không tin tưởng em ư?” – Cô nhìn chằm chằm vào Vĩnh Chương.

Vĩnh Chương nhìn vẻ mặt vô cùng kiên quyết của Thái Thiều, đáp lại:

“Không hề có chuyện anh không tin tưởng em, nhưng anh cảm thấy anh không thể đáp ứng yêu cầu này của em.”

“Nếu như không phải là anh không tin được  em, thì làm sao anh lại không bằng lòng?” Thái Thiều đứng lên, nói rất khẩn thiết.

“Em thực sự không thể không kiss anh ấy ư?”

“Đúng, em sẽ mãi không thể thoải mái, nếu em không thể kiss anh ấy một lần.”

“Được!” – Vĩnh Chương nói rất quả quyết.

Thái Thiều đứng dậy bước đi hai bước, bỗng nhiên cô lại quay trở lại kéo tay Vĩnh Chương bảo:

“Anh đi cùng em qua đó.”

“Anh ngồi ở đây đợi em, chẳng cũng thế à, sợ cái gì mà phải có người đi cùng?”

“Không! Anh phải  đi cùng em!”

“Anh không thể đi cùng em qua đó được. Hơn nữa, nếu anh đi cùng em, thì chả hóa ra là anh không tin tưởng  em sao? Em nghĩ xem có phải không?”

Thái Thiều không đáp lời, đi tiếp, rồi bỗng lại đứng lại nói:

“Tim em đập mạnh quá, anh không được rời đi đâu đấy.”

“Được, anh đã đồng ý ở đây với em mà.”

“Em đi nhé.” Thái Thiều nói xong liền nhẹ nhàng tiến lại phía chiếc ghế bành lớn Tử Nghi đang nằm ngủ. Càng đến gần, khuôn mặt Tử Nghi càng thấy rõ ràng hơn, con tim Thái Thiều lại càng đập nhanh hơn. Đến khi cô đi tới trước cái ghế, thì tim cô lại càng đập thình thịch gấp gáp loạn nhịp hơn. Cô lúc này, mặt nóng đến khác thường, tim đập đến khác thường, lặng ngây đứng nhìn chăm chăm vào Tử Nghi, lát sau trên mặt hơi nóng đã lui đi, trong tim cũng chợt ngưng bặt những tiếng đập dồn dập mạnh mẽ. Thái Thiều hối hả bước dồn, quay lại trước mặt Vĩnh Chương, không nói câu nào, cúi đầu ngồi xuống. Vĩnh Chương  thấy cô, vội hỏi:

“Thế nào rồi,  Thái Thiều?”

“Không có gì. Em không muốn kiss anh ấy nữa.”

Châu Hải Đường dịch

 


Giới thiệu tác giả:





Lăng  Thúc  Hoa (1900 – 1990) nguyên tên là Lăng Thụy Đường, nguyên quán Quảng Đông, sinh ra và lớn  lên ở Bắc Kinh, tốt nghiệp Đại học Yên Kinh, là một nữ họa sĩ, nữ tác gia Trung Quốc được chú ý trong thời kỳ Dân quốc. Sinh ra trong một gia đình quan lại có truyền thống thư họa ở Bắc Kinh, vì thế từ nhỏ bà đã được  huân tập trong một môi trường văn chương bút mực, điều ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tài năng thiên bẩm, sở thích cũng như cuộc sống của bà. Trên cả hai khía cạnh văn chương và hội họa bà đều những thành tựu ưu tú đặc biệt.

Năm 1923 bà có tác phẩm đầu tay “Đời người con gái quá thê lương”. Năm 1930 bà xuất bản hai tập truyện ngắn “Đàn bà” và “Trẻ con” (Sau đổi tên là “Hai anh em”), năm 1935 làm chủ biên tờ phụ bản “Hiện đại Văn nghệ” của “Vũ Hán nhật báo”. Năm 1947 bà cùng con gái sang Luân Đôn theo chồng, từ đó định cư ở châu Âu. Năm 1953, “Cổ vận” - tiểu thuyết tự truyện viết bằng tiếng Anh của bà được  xuất bản tại Anh. Bà từng giảng dạy  ở nhiều trường Đại học  ở Singapore, Canada, Anh … Từ năm 1972 đến 1981 bà nhiều lần quay về Trung Quốc, vẽ tranh viết văn, xuất bản nhiều tác phẩm giới thiệu văn hóa nghệ thuật của Trung Quốc ra thế giới bằng tiếng Anh, được hầu hết giới trí thức Anh tán thưởng. Năm 1989 bà quay về Bắc Kinh và mất ở đây vào tháng Năm, năm 1990.

Truyện ngắn “Sau cuộc rượu” (tên gốc “Tửu hậu”) – một truyện ngắn thành  danh của Lăng Thúc Hoa - được bà sáng tác năm 1925, sau khi được Đinh Tây Lâm cải biên thành kịch bản “Sau cuộc rượu”, trên văn đàn đã có hàng loạt những tác phẩm loại này ra đời, được người ta gọi là “Tửu hậu phái”. Điều ấy cho thấy sự chú ý và ảnh hưởng nhất định của truyện  ngắn này từ khi nó mới ra đời, trong thời điểm xã hội lúc bấy giờ. 



[1] Kiss: hôn (tiếng Anh) – nguyên văn chữ dùng của tác giả.

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

VĂN CHƯƠNG TRONG VẠI NƯỚC - Tô Đồng

 

Trước sau tôi vẫn cho rằng, mộng văn chương của mình, đã được manh nha nảy những  hạt mầm đầu tiên từ một vại nước.

Khi tôi còn nhỏ, nước máy tự chảy đến từng nhà vẫn còn chưa phổ biến, cư dân ở mỗi một phố cùng  dùng chung một vòi nước công cộng, vì thế nhà nào nhà nấy đều phải có một cái vại chứa nước. Cái vại nước của nhà tôi chễm chệ “hùng cứ” một góc bếp, tựa như một người khổng lồ với cái bụng lớn lạnh lùng đứng đó, lại cũng giống như một thành viên vô cùng uy quyền trong nhà. Tôi còn nhớ, việc ra vòi nước gánh nước, phần lớn là do hai chị gái tôi đảm đương. Hai chị tôi có đôi thùng tôn, ra hứng lấy đầy nước vào đó rồi ghé vai gánh về nhà, với vẻ tức giận thường thấy khi người ta phải làm những việc không chủ động làm, rồi ào ào đổ nước vào trong vại. Tôi dĩ nhiên chỉ khoanh tay đứng bên cạnh xem, nhìn thấy trong vại chớp mắt nước đã dâng cao, nước trong nuốt dần thành vại màu nâu sẫm, tự nhiên có một niềm hưng phấn khó tả. Bây giờ nhớ lại, niềm hưng phấn ấy là vì tôi có một bí mật, tâm điểm của bí mật ấy liên quan đến một con trai ở dưới đáy vại nước.     

Xin cho phép tôi được kể lại câu chuyện vô cùng ngây thơ này. Chuyện rằng, có một chàng trai nghèo tốt bụng nhặt được một con trai người ta vứt đi ở bên sông, chàng thương tình mang nó về nhà, thả vào vại nước duy nhất trong nhà để nuôi. Theo đúng như mô-típ kể chuyện đồng thoại, con trai ấy tất nhiên không phải là một con trai bình thường, giữa hai mảnh vỏ trai có một người ở trong đó, một nàng tiên! Chẳng biết là để báo ơn cứu mạng, hay là vì vướng phải lưới tình, mỗi ngày khi chàng trai ra ngoài làm việc, nàng tiên lại từ trong vại nước bước ra, sắp cơm dẻo canh ngọt để sẵn lên bàn cho chàng, rồi lại chui vào trong vỏ trai của mình. Còn chàng trai nghèo đang ăn bữa nay chưa biết bữa mai ấy, từ đó trở nên no cơm ấm áo, thoát khỏi cảnh nghèo khó của mình một cách diệu kỳ.

Bây giờ tôi vẫn còn thấy ngượng khi phân tích xem vì sao khi còn nhỏ được nghe người lớn kể không biết  bao nhiêu câu chuyện đồng thoại vô cùng lý thú như vậy, mà tôi lại chỉ say mê với câu chuyện về nàng tiên sống trong vỏ con trai ấy? Nếu không phải là do gien ưa nhàn nhã  ghét mệt nhọc bẩm sinh, thì có thể đó là có tâm lý chờ đợi một chiếc bánh nướng từ trên trời rơi xuống của những người bình thường. Đến nay tôi vẫn còn nhớ như in những khoảnh khắc mở nắp đậy vại nước ra: khi cái nắp vại được mở ra, thì một giấc mơ hư ảo và náo nhiệt cũng được bung nở.      


Chăm chú nhìn vào vại nước là cách đọc sớm nhất của tôi, và cũng là cách đọc mà đến nay tôi vẫn còn hoài niệm. Cách đọc ấy vừa tràn đầy ý thơ, cũng tràn đầy hư không. Bất luận là thi ý hay hư không, đều phải trải qua thời gian để lĩnh hội. Tôi chưa bao giờ được thấy câu chuyện đồng thoại xuất hiện trong vại nước nhà mình, sang nhà người khác mở nắp vại nước của nhà khác cũng vậy. Chỉ có nước, không có con trai nào, càng không có nàng tiên nào cả. Thi thoảng mẹ tôi mua trai ở chợ về, chuẩn bị để nấu với đậu phụ, tôi lại nảy ra ý nghĩ tìm một kết cục khác cho con trai, tôi luôn cảm thấy nên thả nó vào vại nước thử xem sao. Tôi đã từng thử một lần, nhưng con trai ở trong vại nước khiến nước có mùi tanh nên cuộc thử nghiệm nhanh chóng bị phát hiện. Người trong nhà lập tức vớt con trai trong vại nước ra ném đi, bảo: “Trong vại nước làm sao nuôi trai được? Mày xem xem, vất vả mãi mới gánh được vại nước, giờ không dùng được nữa rồi! Cái thằng oắt này, trông mặt mũi sáng sủa mà rõ là ngốc!”

Tôi vẫn luôn tin rằng, tất cả những sáng tác nghệ thuật vô cùng nghiêm túc của người lớn đều chịu ảnh hưởng bởi lòng hiếu kỳ thuở nhỏ. Còn với những người được gọi là nhà văn, lòng hiếu kỳ của họ đều hóa thành những con chữ hữu dụng hoặc vô dụng, bị đào thải hoặc được lưu lại. Ở khía cạnh lòng hiếu kỳ, nhân vật mà họ đóng vai may mắn nhất cũng kỳ quặc nhất, tựa hồ cùng lúc có cả may mắn và bất hạnh. Lòng hiếu kỳ của họ muôn hình vạn trạng, vì không có giá trị thực dụng và phương hướng cụ thể nên dường có vẻ mơ hồ. Chỉ dựa vào cái lòng hiếu kỳ mơ hồ này, mà lại phải đưa ra những giải phẫu và thuyết minh sắc bén nhất đối với thế giới hiện thực, vì vậy công việc này có lúc đã khiến tôi cảm thấy đó là số mệnh, là thách thức, và cũng là một kỳ tích.

Một công việc mang tính kỳ tích thì cần phải cố gắng một cách kỳ tích. Trong thời thơ ấu của mình, kỳ tích mà tôi mong đợi đều ở cả một chiếc vại nước. Thời gian trôi qua, đã mang theo chiếc vại nước ấy đi, cũng mang theo mất cả một phần kỳ tích. Trước nay tôi vốn không thích mỹ hóa quá mức cuộc sống ấu thơ, cũng không muốn ngồi trên cây cổ thụ hồi ức phô trương quá mức tình cảm của mình, nhưng tôi tuyệt không đành lòng vứt bỏ ký ức về chiếc vại nước trong thời niên thiếu. Bao nhiêu năm qua, kỳ thực tôi vẫn luôn đang viết về động tác không ngừng mở nắp vại nước ấy – nào ai biết được, đó là động tác chờ đợi, hay là động tác kiếm tìm? Từ trong một chiếc vại nước không nhìn thấy cuộc đời, nhưng có thể nhìn thấy con trai ấy. Trong con trai ấy không nhìn thấy nàng tiên, nhưng có thể nhìn thấy tia sáng le lói của kỳ tích./.


Giới thiệu Tác giả:

Tô Đồng, vốn tên Đồng Trung Quý, sinh năm 1963 tại thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô, là nhà văn đương đại Trung Quốc, đại biểu của phái Tiên phong. Năm 1980 Tô Đồng thi đậu vào khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1983 bắt đầu có tác phẩm ra mắt. Năm 1985 ông xuất bản tiểu thuyết “Cuộc đào vong năm 1934”, năm 1988 xuất bản tiểu thuyết “Thê thiếp thành quần” – tiểu thuyết sau đó đã được đạo diễn Trương Nghệ Mưu dựng thành bộ phim “Đèn lồng đỏ treo cao” nổi tiếng. Năm 2009, ông xuất bản trường thiên tiểu thuyết “Hà ngạn”, và giành được Giải thưởng Văn học Châu Á MAN (Man Asian Literary Prize).  Năm 2013, Tô Đồng xuất bản trường thiên tiểu thuyết “Hoàng tước ký”  - bộ tiểu thuyết đã giúp ông giành Giải thưởng Văn học Mao Thuẫn lần thứ 9 năm 2015. Ngoài ra ông còn từng giành nhiều giải thưởng văn học với nhiều thể tài tác phẩm khác. Hiện Tô Đồng là Phó chủ tịch Hội nhà văn tỉnh Giang Tô, Ủy viên đoàn chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc. Nhiều tác phẩm của Tô Đồng đã được dịch ra các ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý …  Ở Việt Nam, đã có xuất bản tác phẩm “Thê thiếp thành quần” (tên Việt: Đèn lồng đỏ treo cao cao – Hoài Vũ dịch, và Đèn lồng đỏ treo cao – Nguyễn Vạn Lý dịch), “Hà Ngạn” (tên Việt: “Con thuyền không bến đỗ” – Lê Thanh Dũng dịch).